Ngôi đình cổ của làng Minh Hương
Vào thế kỷ 17, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, một số cựu thần không phục, hoặc ở lại trong nước tiếp tục chiến đấu trong các tổ chức “phản Thanh phục Minh,” hoặc bỏ nước ra đi và mang theo nhiều người sang Việt Nam, tìm vùng đất mới để định cư. Tiêu biểu như hai vị tổng binh, cựu thần của nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, đã mang 50 chiến thuyền với khoảng 3.000 binh sĩ và gia đình, sang nước ta xin hàng phục Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vào năm Kỷ Mùi -1679.
Đến năm 1698, một số con cháu người Hoa đã ngụ cư lâu năm ở dinh Phiên Trấn xin thành lập làng Minh Hương, tức ngay khi chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Trong cái tên Minh Hương, “Minh” là ý chỉ triều Minh, còn “Hương” nghĩa là làng, Minh Hương có nghĩa là “làng của người Minh”. Có ý kiến cho rằng, cái tên này là để người làng nhắc nhớ nguồn gốc mình là thần dân nhà Minh (1368-1644), như một cách bày tỏ nỗi lòng của những người xa xứ đối với tổ tiên nơi quê nhà.
Cũng có lý giải rằng, “Hương” trong tên làng mang nghĩa là hương hỏa, ý nói thần dân nhà Minh dù di cư đến vùng đất mới vẫn tiếp tục thờ tự Minh triều. Từ tên gọi của ngôi làng người Hoa ra đời cuối thế kỷ XVII, Minh Hương sau này được dùng để gọi một bộ phận người Hoa vùng Sài Gòn, Nam Bộ, như một cách để phân biệt với những bộ phận người Hoa di cư đến nước ta vào những thời kỳ khác.
Trở lại thời điểm lập đình, cộng đồng người Hoa lúc bấy giờ để hòa nhập với cư dân Việt, sau gần trăm lập làng, đã quyết định chung sức xây dựng ngôi đình. Đình được xây dựng năm 1789 (đường Trần Hưng Đạo, quận 5, TP HCM), lúc sơ khai, chỉ có 1 tầng, để có nơi thờ cúng và chức sắc xã có nơi làm việc. Đây được cho là ngôi đình đầu tiên của người Hoa ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh.
Đề cập đến công trình này, học giả Vương Hồng Sển từng viết: “Một ngôi chùa... liên hệ rất nhiều đến lịch sử là chùa Minh Hương Gia Thạnh, lập năm Kỷ Dậu (1789) do di thần Minh mạt và con cháu Minh Hương, dựng trong Chợ Lớn (Sài Gòn thời đó), để di dưỡng tinh thần yêu cố quốc, mến quê hương, chùa này đến nay khói hương không dứt, được tiếng khéo tu bổ, khéo săn sóc nhứt trong vùng”.
Chính điện của đình với với nhiều hoành phi, câu đối được chạm khắc tinh tế |
Năm 1867, chính quyền Pháp thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã, vì thế đình trở thành hội quán của Hội Minh Hương Gia Thạnh. Công trình từ khi được xây dựng, trải qua vài lần trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Trong đó, lần tu sửa cuối có sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính điện.
Đình được xây dựng theo kiểu nhà 5 gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường xây bằng gạch. Trang trí với chủ đề hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc... Trước đình có hai câu đối nguyên văn chữ Hán, dịch âm Hán Việt: “Gia hiến phục chấn cơ quang cựu, thịnh đức trường lưu miếu mạo tân”. Nghĩa là: “Gia tăng văn hiến, chấn hưng nghiệp xưa, chỉnh trang nên móng cũ, làm hưng thịnh đức độ, chuyển nối lâu dài, dựng xây đền miếu mới”.
Không gian bên trong bao gồm nhà võ ca, chính điện và hậu điện, bên phải nhà võ ca có miếu Ngũ Hành. “Xương sống” của đình là bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá, tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19...
Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng - hạc, mai - điểu, liên - áp, giỏ cua, giỏ trái cây... Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa...
Khám thờ thần đặt ở giữa bài vị: Ngũ thổ tôn thần - Ngũ cốc tôn thần - Đông trù tư mệnh - Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có lư hương trầm bằng đá và tượng của Trịnh Hoà Đức, Ngô Nhân Tịnh - hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, cùng với Lê Quang Định, một công thần của triều Nguyễn, hợp thành “Gia đinh tam gia” nhóm nổi tiếng về văn học và sử học.
Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên. Ngay sau chánh điện có sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời), kế đến là hậu điện. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau để thờ các vị tiền hiền khai sáng ra làng (khám giữa), các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã (khám trái) và những viên chức nhỏ có công (khám phải).
Ở miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trước tượng Chúa Sinh Nương Nương là tượng hai người hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Ngoài ra, Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu... Ngôi đình cổ này được cho là nơi linh thiêng, là một trong những điểm cầu con nổi tiếng ở Sài Gòn.
Nơi người làng được vua khen ngợi
Điều đặc biệt phải nói đến ở đình Minh Hương Gia Thạnh, đó là những hiện vật quý còn lưu giữ được, trong đó có bức hoành phi rất giá trị với 4 chữ “Thiện Tục Khả Phong” (Phong tục tốt lành đáng được khen ngợi), do vua Tự Đức ban tặng vào năm 1863. Sở dĩ làng Minh Hương có được điều đó là bởi đây là làng duy nhất hoặc hiếm hoi có hương ước ở Nam Bộ thời nhà Nguyễn, còn gọi là Minh Hương xã hương ước khoán văn.
Bản khoán ước được các hương chức của làng lập ra, bắt đầu từ năm Canh Thân (1800), được bổ sung hoàn thiện các năm sau đó. Về sau được ông Trịnh Hoài Đức, lúc đó là Lại Bộ Thượng Thơ, Phó Tổng Tài Quốc sử quán, xem xét và phê chuẩn năm Tân Tị (1821). Do đó, đối với người Minh Hương, mọi người đều tin tưởng và xem như bản khoán ước là do chính ông Trịnh Hoài Đức lập ra.
Nhờ tinh thần tự giác thực hiện và chấp hành nghiêm túc theo các điều khoản trong bản khoán ước, cốt yếu là tuân theo luân thường đạo lý, kỷ cương phép tắc, tình yêu thương tương trợ nhau… dân làng Minh Hương nổi tiếng là sống rất thuận thảo và giữ gìn được thuần phong mỹ tục. Vậy nên dân gian miền Nam có câu ca dao: “Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng/ Đố ai lịch sự (cho) bằng làng Minh Hương.” Nét đẹp ấy cho đến ngày nay vẫn là niềm tự hào của cộng đồng người Việt gốc Hoa ở Sài Gòn.
Kiến trúc đình với kiểu nhà năm gian được gìn giữ nguyên vẹn |
Ngoài ra, trước chính điện của đình vẫn còn treo câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821): “Minh đồng nhật nguyệt diệu Nam thiên/ Phượng chử lân tường gia cẩm tú/ Hương mãn càn khôn binh Việt địa/ Long bàn hổ cứ thạnh văn chương”. Tạm dịch: “Sáng cùng nhật nguyệt rạng trời Nam/ Lân múa, phượng bay thêm gấm vóc/ Hương khắp đất trời thơm cõi Việt/ Rồng chầu hổ phục thịnh văn chương”.
Góc trái chính điện có một chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và cho phép chuyển tên từ “làng” sang “đình”. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16 tháng giêng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo”, “Long tập Quý Mùi thu nguyệt”, nghĩa là chuông do xã Minh Hương thành Gia Định làm năm Quý Mùi – 1823.
Trong đình còn nhiều hiện vật quý khác, như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn, một số hoành phi câu đối (có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối). Đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng... với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc. Hai đỉnh gang làm năm 1842, bộ ghế chạm rồng, phượng, bộ thập bát binh khí... Góc trái miếu Ngũ Hành có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849).
Trải qua mấy trăm năm mưa nắng, đình Minh Hương Gia Thạnh vẫn được các thế hệ con cháu người Việt gốc Hoa xa xưa chung tay gìn giữ. Giữa trung tâm của một đô thị hoa lệ, đông đúc và sôi động bậc nhất nước, ngôi đình vẫn giữ được nét cổ kính rêu phong trên nền kiến trúc độc đáo. Đình ngày nay như một minh chứng cho sự hòa nhập của cộng đồng người Minh Hương với văn hóa người Việt. Mang trên mình nhiều giá trị, Minh Hương Gia Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1993.