Đức Phật - nhà triết học vĩ đại đầu tiên của nhân loại?
Nhà triết học cổ đại Hy Lạp Heralitus (khoảng 535 TCN – 475 TCN) được xem là ông tổ của phép biện chứng, với câu nói nổi tiếng: “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông” thể hiện thế giới quan về sự vật hiện tượng vận động, biến đổi không ngừng. Ít ai biết rằng, thực ra trước đó hơn một thế kỷ, vào năm 624 TCN đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong cách nhìn nhận về thế giới quan, nhân sinh quan đã chứng ngộ và tuyên bố một định luật vô thường.
Trong nhiều bài kinh nguyên thủy cổ xưa nhất còn tìm thấy cho đến ngày nay, người ta đều thấy đức Phật chú trọng đến nhận thức vô thường, nhận diện vô thường để từ đó con người có thể làm chủ khổ đau, đạt tới hạnh phúc chân thật vĩnh hằng bằng sự chuyển hóa nhận thức của chính mình.
|
Khi nói về thế giới và con người, theo đức Phật: Thế giới này được trợ tạo bởi nhân duyên hòa hợp, pháp nào do duyên hợp, pháp ấy phải chịu sinh diệt, vô thường, tan hoại và diệt vong. Trong bài kinh Ngưu Phấn Dụ (kinh số 61 trích trong Trung A Hàm) có đoạn như sau: “Vào lúc xế chiều, vị Tỳ- kheo ấy từ chỗ ngồi yên tĩnh đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một bên và bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay ở chỗ nhàn tĩnh, con ngồi tư duy, suy nghĩ như vầy: ‘Có sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức, nào thường trú, bất biến, chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng?
Phật bảo Tỳ- kheo: “ Không có một sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn; không có thọ, tưởng, hành, thức, nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn”. Như vậy đức Phật khẳng định không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức nào là thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn.
Qua quan điểm của đức Phật tới nhận thức của Heralitus, ta thấy chân lí vô thường không bị giới hạn bởi quan điểm tôn giáo và địa lí. Bởi đó là quy luật của vũ trụ. Khi ta nhận diện được vô thường khi đó ta không còn bị ràng buộc bởi khổ đau và phiền não.
“Định luật vô thường” của Đức Phật
Quy luật vô thường được đức Phật chia làm bốn giai đoạn: “thành, trụ, hoại, không” hay “sinh, trụ, dị, diệt”. Những quá trình biến đổi này diễn ra ngắn hay dài tùy thuộc vào bản chất của chúng. Ví dụ có con vật sống được vài ngày, có con vật sống vài chục năm, có cây cổ thụ sống vài trăm hoặc cả nghìn năm, một hành tinh tồn tại hàng triệu năm…
Đức Phật dạy: con người là tập hợp của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Gọi khác đi là thân và tâm; nhìn nhận dưới góc độ triết học là vật chất và tinh thần, dưới góc độ sinh học là sinh lí và tâm lí. Mỗi người chúng ta cũng không tránh được quy luật vô thường, quy luật sinh - trụ - dị - diệt giữa vũ trụ vô thủy vô chung. Thông thường, vòng quay quy luật mỗi đời người tồn tại khoảng vài chục năm.
|
Vô thường (ảnh minh họa) |
Nhưng thực tế khắc nghiệt hơn nhiều, dưới cái nhìn của bậc trí giả, bậc kiến giả, bậc lợi tuệ, bậc đại tuệ, bậc đại A-la-hán, Chánh đẳng giác thì trông thấy con người và vạn vật biến đổi không ngừng. Ngài thấy bốn thời kỳ “sinh, trụ, dị, diệt” có khi diễn ra không đầy chớp mắt, tức là chưa đầy một sát-na (khoảnh khắc, rất ngắn ngủi).
Đạo Phật dạy ta, con đường để đi đến giải thoát có rất nhiều phương pháp, tùy theo nhân duyên nghiệp báo mỗi người. Con đường đó là tu tập, tu thân tích đức. Trong kinh Trung Bộ đức Phật dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa”.
Ngài cũng dạy, thân người khó được, Phật pháp khó nghe, hãy tinh tấn tu hành, thoát khỏi khổ đau, luân hồi sinh tử, làm lợi lạc chúng sinh. Ngày nay, thân ta đã được, Phật pháp đã nghe, chỉ duy nhất phụ thuộc nơi mình là có chịu tu hành, sống cuộc đời lương thiện, lợi mình lợi người hay không mà thôi!
Ở con người, quan niệm Phật giáo cho rằng, vô thường sẽ chi phối theo nghiệp quả. Vậy nên, ta hãy chấp nhận và dùng các khái niệm vô thường ấy để quán chiếu và để tu tập, làm cho cuộc sống chúng ta vơi bớt đi những khổ đau và phiền lụy, tạo nhân lành cho những kiếp nối tiếp về sau.
Để an nhiên giữa cuộc sống vô thường
Có người nói cuộc đời là trầm luân bể khổ. Lại có người nói đời là thiên đường hạnh phúc. Vậy rốt cục đời vui hay khổ? Câu trả lời là đôi khi niềm vui hay nỗi khổ lại là do cảm nhận của mỗi người.
Ví như hàng xóm thấy tội nghiệp cho người phụ nữ bị chồng ly hôn vì sinh ra đứa con thiểu năng. Nhưng bản thân người phụ nữ lại thấy mình may mắn vì đã dứt bỏ được người đàn ông nhân cách chẳng ra gì. Chị còn thấy bằng lòng với hạnh phúc hiện tại: con chị dù không nhanh nhẹn nhưng bù lại con khỏe mạnh, hồn nhiên và chị cảm ơn số phận đã ban cho chị đứa con này “không có người phụ nữ nào bất hạnh vì đã sinh ra những đứa trẻ”- như người mẹ chia sẻ.
|
Cuộc sống vận động không ngừng như chiều quay bất tận của chữ Vạn theo quan niệm Phật giáo |
Cuộc sống vận động không ngừng như chiều quay bất tận của chữ Vạn theo quan niệm Phật giáo. Chẳng niềm vui nào còn mãi, chẳng nỗi khổ nào tồn tại suốt đời nếu như con người ta không ôm mãi đau khổ, sân hận trong lòng. Nhìn thấy rõ sự ngắn ngủi hữu hạn của đời sống theo lời Phật dạy để chúng ta sống có ý nghĩa hơn. Nói như nhân vật Paven Coocsaghin trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” thì: “Mỗi người chỉ có một lần tuổi trẻ, hãy sống sao cho không phải hổ thẹn vì những năm tháng sống hoài sống phí”.
Lối sống đẹp là lối sống tích cực, biết đủ, biết sống an nhiên giữa cuộc sống vô thường. Như đài sen vượt lên bùn lầy để tỏa hương. Như biểu tượng cái bánh xe theo quan niệm Phật giáo, dù cuộc sống bốn phương tám hướng đều trắc trở thì bánh xe vẫn quay, nhẫn nại vận động, tiến về phía trước. Đó chính là bản hoài ca của chư Phật ba đời mười phương, dạy con người nhìn rõ và sống đúng, hãy an nhiên tìm kiếm và tận hưởng hạnh phúc trong từng sát-na.