Không ngoài nhận định của Trần Quốc Tuấn, dù phải đối đầu đội quân đông đảo, thiện chiến của nhà Nguyên, nhưng với chiếc lược, sách lược hợp lý, quân dân nhà Trần đánh tan đạo quân xâm lược với đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.
Trận chiến "đánh giặc nhàn"
Tháng 3 âm lịch năm 1286, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt sai Thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích (Auruyvci), Bình chương sự Ô Mã Nhi (Omar) huy động 50 vạn quân, rồi sai hành tỉnh Hồ Quảng đóng 300 thuyền chiến, định đến tháng 8 hội quân ở Khâm Châu, Liêm Châu. Hốt Tất Liệt còn sai quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây chuẩn bị đánh Đại Việt, mượn danh nghĩa đưa phản thần nhà Trần là Trần Ích Tắc về làm An Nam Quốc vương.
Tháng 6 âm lịch, vua Trần Nhân Tông xuống chiếu cho vương hầu, tôn thất chiêu mộ binh sĩ. Nhà vua hỏi Hưng Đạo vương: “Thế giặc năm nay thế nào?”. Trần Quốc Tuấn trả lời: Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh.
Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm nớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu.
|
Họa hình 3D Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. |
Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn. Vua Trần Nhân Tông cử Hưng Đạo vương thống lĩnh vương hầu luyện tập binh sĩ, sửa sang khí giới, đóng thuyền chiến. Tháng 2 âm lịch năm 1287, nhà Nguyên điều động quân Mông Cổ, quân Hán Nam (người Hán ở miền Nam Trung Quốc), quân 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, quân Vân Nam, quân người Lê ở 4 châu ngoài biển, chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt. Vạn hộ Trương Văn Hổ dẫn quân thủy chở 70 vạn thạch lương theo sau.
Hốt Tất Liệt còn lập Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh do Bình chương sự Áo Lỗ Xích, các Tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đứng đầu; cơ quan này phải chịu sự sai khiến của Thoát Hoan. Các quan Đại Việt xin bắt tráng đinh sung quân để quân đội đông hơn, nhưng Hưng Đạo Vương không đồng ý: Quân quý ở tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân mà như Bồ Kiên thì cũng làm gì được?
Theo đó, Bồ Kiên là vua nước Tiền Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong sử Trung Hoa. Quân Tiền Tần đem 100 vạn quân đánh Đông Tấn. Quân Tiền Tần đông nhưng ô hợp, bị 8 vạn quân Đông Tấn tàn sát trong trận Phì Thủy. Ngày 14 tháng 11 âm lịch 1287, Trịnh Xiển báo tin cánh quân Vân Nam của Nguyên đánh ải Phú Lương. Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương: “Năm nay đánh giặc thế nào?”. Ông vẫn quả quyết: “Năm nay đánh giặc nhàn”.
Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng
Tại sao Trần Quốc Tuấn có thể quả quyết “năm nay đánh giặc nhàn”. Đó chính là cái tài cầm quân của kẻ làm tướng. Binh Thư yếu lược nói về chiến lược, mưu đánh giặc như sau: “Khi giao binh, nếu muốn biết tình trạng hư thực của địch, ta hãy làm cho người lộ hình tích mà giữ cho ta vô hình.
Ta làm cho người bộc lộ tình trạng hư thực, đánh vào chỗ sơ hở của họ mà thành ra đánh được chỗ vững bền của họ. Nếu ta đánh vào chỗ vững mạnh của địch, ắt là ta sai lầm; nếu ta đánh mạnh vào chỗ sơ hở của địch thì ta được vững mạnh, sai lầm ở trên là bởi lẽ đó. Sâu kín đến nỗi trở nên vô hình, giấu kỳ ở trong chính, giấu chính ở trong kỳ, lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ.
Phép đánh là dùng chính để hợp, dùng kỳ để thắng, phép chiến thắng không ra ngoài kỳ chính, cách biến hóa của kỳ chính không bao giờ hết được. Kỳ và chính sinh ra nhau như vòng tròn không có đầu mút. Xét hư thực, hiểu rõ đâu là vững chắc, đâu là sơ hở, khéo dùng phép kỳ chính, đó là ba vật báu của binh pháp.
Biết mình biết người trăm trận trăm thắng. Nuôi khí lực của dân, định tâm chí của quân, đó gọi là biết mình. Xét tình hình quân địch, đó gọi là biết người. Việc cốt yếu trong khi đánh giặc là trước hết xem xét tài năng của tướng địch, tùy theo hình thế mà dùng cơ quyền, ắt là không mệt nhọc mà được thành công”.
“Tướng địch ngu ngốc mà lại tin người thì ta có thể hứa hẹn dẫn dụ; tướng địch tham lam mà không cầu danh thì ta có thể dùng tiền để hối lộ; nếu tướng địch nhẹ dạ vô mưu thì ta có thể làm cho phải vất vả, khốn đốn; bên địch trên giàu mà kiêu căng, dưới nghèo mà oán hận thì ta dùng mẹo ly gian; bên địch tới lui ngờ vực, dân chúng không biết trông cậy vào ai thì ta làm cho chúng rúng động rồi đuổi đánh chúng…
Địch đóng quân ở chỗ ẩm thấp, nước không có chỗ chảy thông, trời mưa dầm lâu ngày thì ta có thể khơi nước chảy vào để chúng chết đuối. Địch đóng quân ở chốn đồng hoang, lau cỏ um tùm, khi có gió mạnh ra dùng lửa để đốt chúng chết cháy. Địch đóng quân lâu ngày ở một chỗ, tướng sĩ biếng nhác, quân ấy không phòng bị, ta có thể ẩn nấp để đánh úp”. Quay trở lại với cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ ba, lần này biết nhà Trần đã phòng bị ở Thanh - Nghệ,
Thoát Hoan tiến thẳng vào từ phía bắc và đông bắc. Sau những cuộc đụng độ bất lợi ở biên giới, quân Đại Việt rút lui. Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Đại Việt nấp trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui.
Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Đại Việt thường ẩn nấp khó phát hiện ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút lui. Trong khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư chặn đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do bị thiếu lương và bệnh dịch,
Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288), bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến “quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần”.