“Phụ nữ sinh con nếu không may tử vong thì đứa con sẽ được chôn sống theo mẹ. Nếu sinh đôi, thì những đứa con sẽ được mang lên rừng bỏ làm mồi cho thú dữ... Đó là những luật tục bất thành văn của một bộ phận người dân tộc vùng cao huyện Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam). Những luật tục chết người ấy đến nay vẫn còn là nỗi ám ảnh bủa vây những số phận, những sinh linh bé nhỏ giữa rừng thẳm….
Lời nguyền khắc nghiệt
Nam Trà My là huyện miền đất nằm lọt thỏm giữa đại ngàn Trường Sơn cách trở. Có đến 90% là người dân tộc nghèo khó nằm rải rác trong các cánh rừng, còn văn hóa bản làng của họ, vẫn còn chứa đựng nhiều luật tục huyền bí. Trong đó tồn tại một luật tục khắc nghiệt nếu không muốn nói là hãi hùng.
Chuyện kể rằng: Có một vợ chồng trẻ, khi người vợ sinh đôi nhưng không chịu mang con bỏ vào rừng, một thời gian sau cả gia đình ấy đều mắc bệnh mà chết, riêng người chồng thì trở nên khờ dại và cứ lang thang mãi trong rừng. Rồi cũng một câu chuyện khác, có một người phụ nữ bị băng huyết và chết khi đứa trẻ vừa cất tiếng khóc chào đời.
Thế nhưng, đứa trẻ ấy lớn lên lại không có được hình thù của một con người, trong khi đó, những người thân của cậu cũng lần lượt chết yểu không rõ nguyên nhân… Vì vậy, họ nghĩ, trẻ sinh đôi hoặc mẹ đã chết thì đứa con là con của ma rừng nên buộc phải trả về cho ma rừng; để nó sống, dân làng sẽ bị ma rừng về quấy phá, đòi con…
Những chuyện trên đã và đang được truyền tụng ở các bản làng mỗi ngày lên rẩy tía lúa, đi săn… lâu dần nó ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân, trở thành một lời nguyền chết chóc đến kinh hoàng.
Có gần 15 năm công tác tại Trạm Y tế xã Trà Leng (Nam Trà My) anh Hải (quê ở Bắc Trà My) hiểu được tính chất khắc nghiệt của luật tục. Nhưng anh vẫn quyết định làm trái lời nguyền. Với anh, ở chốn heo hút rừng thiêng nước độc này hằng ngày vẫn in đậm hình ảnh, bước chân của mình qua từng thôn, bản.
Và mỗi khi có đứa trẻ vô tội nào đó bị gia đình, người làng chối bỏ lúc mới cất tiếng khóc chào đời, anh lại bầm gan tím ruột. Nỗi đau trước số phận của những sinh linh bé nhỏ thôi thúc anh thanh niên này can đảm xé rào luật tục. Dẫu biết là mạo hiểm, bước quá giới hạn của “người lạ” nhưng lương tâm không cho phép anh dừng lại…
Bị bắt vạ vì xé rào hủ tục
Trước kia, anh Hải cũng từng một thời tuổi đôi mươi ấp ủ với bao mộng mơ, lãng mạn. “Tôi học trung cấp tế Đà Nẵng, ra trường năm 1997 rồi xin về quê công tác, lúc ấy, 2 huyện Bắc Trà My và Nam Trà My còn chung một huyện, nên tôi xung phong đến cùng cao hẻo lánh này, nhưng lại là nơi có những đồng bào đang rất cần những người như mình.
Lúc mới lên, tôi cũng nghĩ, thôi thì làm vài năm rồi xin về xuôi, ở thị trấn cho gần nhà. Nhưng huyện cho đi học thêm, khi trở về tôi lại tiếp tục xin vào đây. Cơ duyên! Ở Tà Lèng, anh gặp bà xã - cô giáo cũng dưới xuôi lên công tác, rồi cưới nhau lập nghiệp tới giờ. Dường như cái duyên của mình sinh ra để kết chặt với rừng núi”, anh kể với nụ cười ùa vào tuổi tác hiển hiện trên gương mặt.
Chị Trần Thị Lung, là người mẹ đầu tiên khiến anh có can đảm “xé rào” hủ tục. “Lung bị băng huyết, đến lúc rất nguy kịch mới được người nhà đưa đến trạm xá. Đêm khuya, đường sá lầy lội không thể chuyển lên huyện được, mà có chuyển đi thì mất thời gian, máu ra nhiều cũng khó qua nổi. Anh quyết định bằng mọi giá phải cứu người tại trạm xá chứ chuyển lên huyện sẽ không kịp. Và anh đã cứu được ca này…”.
Hôm sau Lung tỉnh lại. Câu đầu tiên Lung nói là: Bác Hải hãy cứu con tôi!”. Hỏi ra mới biết Lung sinh đôi, một trai, một gái. Chồng Lung quyết định bỏ đứa gái. Nghe xong, anh Hải tức tốc tới nhà Lung. Vào nhà thì thấy người làng đang làm lễ cúng bỏ bé gái. Anh ra sức phân tích rồi năn nỉ và cuối cùng kiên quyết bồng bé gái về trạm y tế để chăm sóc.
Nửa tháng sau mẹ con khỏe lại và trở về nhà. Lung địu con về thì bị dân làng xa lánh, cả người trong nhà cũng hắt hủi. Rồi Lung địu luôn 2 đứa con chạy ra “bắt đền” anh. Chẳng biết làm sao, anh Hải phải mua sắm quần áo, gạo cho ba mẹ con ăn ở qua ngày.
Ẵm trộm “con của ma rừng” về nuôi!
14 năm, quãng thời gian gắn bó với núi rừng, anh không nhớ nổi mình đã cứu bao nhiêu người thoát khỏi bệnh tật, bao nhiêu người mẹ vượt qua ca sinh khó để cứu đứa con. Nói đến đây, sắc mặt anh Hải bỗng chùng xuống, giọng anh chua xót: “Đã có nhiều đứa trẻ chết oan mà mình không biết để cứu”.
Rồi anh tâm tình: “Thực ra, câu chuyện cuộc đời tôi, buồn cũng nhiều mà vui cũng nhiều, cái được lại không ít. Ví như đứa con Nguyễn Trần Thị Giang (hiện đang học tại Trường PHCS ở Thị trấn Trà My) vừa ngoan hiền, học giỏi, nó là động lực để tôi có thêm “dũng khí” chiến đấu với tập tục”, anh Hải khoe.
Chuyện cũng xảy ra ngay tại nóc Ông Méo vào một buổi sáng năm 2002, lúc ấy sương núi vẫn còn bao phủ dày đặc khắp các bản, không gian còn tĩnh mịch. Cậu thanh niên trẻ chưa lập gia đình vẫn đang chìm vào giấc ngủ, bỗng đâu đó quyện trong màn sương là bóng người và tiếng chân thậm thịch, tiếng gọi nhau í ới, có lúc thất thanh.
Hỏi ra mới biết, chị Trần Thị Hồng, người dân tộc Mơ Nông, đã mang thai đến ngày sinh nở, chuyển dạ kéo dài, đẻ khó và bị băng huyết sau sinh. Ngay sau đó được đồng bào trong làng mời cán bộ Y tế đến can thiệp, anh Hải khi đó là Y sĩ, cán bộ của Đội Y tế lưu động của Trung tâm Y tế huyện Trà My về tăng cường, giúp đỡ cho trạm Y tế xã Trà Leng nên được mời đến.
Vừa đến nơi, trước mắt anh là một sản phụ đang nằm trên vũng máu, bên cạnh là một đứa trẻ sơ sinh mới chào đời, hơi thở của người mẹ thoi thóp, nhưng nghiệt ngã là đường xá lại quá xa xôi, đi lại khó khăn. Lực bất tòng tâm, tình trạng bệnh lại nặng, mất máu cấp, nên bà mẹ không qua khỏi.
Theo phong tục địa phương: “cháu bé phải đi theo mẹ” và đang chờ đến giờ …chết. Trước cảnh quá thương tâm, y sĩ Hải đã xin được đem cháu bé về Trạm y tế xã để nuôi dưỡng, nhưng không được gia đình, dân làng chấp nhận , họ sợ “con của ma rừng” sống sẽ không may cho buôn, làng.
Bằng tình thương bao la đối với đứa trẻ, anh đã lén dân làng, vội vã ẵm trộm cháu bé về Trạm Y tế xã để giấu. Nhưng biết không thể giấu lâu, anh quyết bồng bế cháu băng rừng, lội bộ về huyện Bắc Trà My.
Suốt trong 10 ngày vật vả vì không thuê được xe thồ, không ai đến giúp đỡ vì sợ “con của ma”, chỉ với lon sữa, một cái ly con và một bình thủy tinh mượn được ở quán nước gần trạm, thay cho bầu sữa mẹ để nuôi đứa trẻ thơ ngây còn sống sót này. Cuối cùng, trời cũng thương, anh Hải cũng đến được nhà mình ở thị trấn Trà My an toàn.
Tại đây, sau khi nghe câu chuyện bất hạnh của cháu bé, mẹ anh Hải đã khuyến khích, động viên con nuôi nấng cháu bé ngày một khôn lớn. Lý giải về cái tên Nguyễn Trần Thị Giang, anh Hải cho biết: “Nguyễn là họ của anh, Trần là họ của mẹ cháu”, thế rồi thời gian cùng với những khó khăn, nhọc nhằn trôi qua, cháu Giang nay đã là cô con gái ngoan hiền, học giỏi và còn biết giúp đỡ vợ chồng anh trông coi em…
Trong lúc chuyện trò với chúng tôi, anh Hải cũng lật cuốn sổ nhật ký mà ghi chép rất rõ ràng địa chỉ, tên, tuổi, giới tính từng đứa trẻ song sinh, hay chết mẹ được anh cứu sống. Trong đó Tiết và Tùng cũng ở Tà Leng là hai đứa trẻ anh đến cứu ngay trong khu rừng ma khi các em sắp sửa bị chôn sống.
“Chuyện này chính quyền xã có biết không?”. “Biết chứ. Cán bộ xã cũng là người Mơ Nông mà”. “Họ biết? Vậy sao họ lại để xảy ra những chuyện như thế?”. “Sợ bắt đền nên không ai dám ngăn.