Phải tính hết mọi ngóc ngách của vấn đề
PV: Chào bà, bà có cho rằng đã đến lúc Luật Hôn nhân và Gia đình cần phải có quy định về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo?
Tuy nhiên, đối với việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, tôi còn có nhiều băn khoăn. Chẳng hạn, pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên như thế nào? Giữa người nhờ mang thai hộ và người mang nặng đẻ đau nếu phát sinh tranh chấp thì cơ chế giải quyết ra sao? Rồi những người như thế nào mới được quyền yêu cầu mang thai hộ? Nếu chẳng may đứa trẻ sinh ra bị khuyết tật thì trách nhiệm của các bên ra sao....?
Một vấn đề nữa mà tôi cho rằng Luật này cũng phải giải quyết thấu đáo, đó là ranh giới giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Luật quy định bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ hỗ trợ một khoản chi phí để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, nhưng thế nào là đủ? Vì hai bên tự giao dịch với nhau nên ranh giới giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và “đẻ thuê” là rất mong manh.
Tôi cũng băn khoăn về quy định của Luật này liên quan đến rất nhiều luật khác, quy ước khác trong xã hội như vấn đề kế hoạch hóa gia đình, chủ trương “mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con để nuôi dạy cho tốt” bởi nếu công chức, viên chức lợi dụng quy định này để sinh con thứ 3 thì giải quyết ra sao?
Cho nên, quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đặt ra vào thời điểm này là phù hợp, là đòi hỏi bức thiết của thực tế, nhưng đã đặt ra rồi thì phải tính đến mọi khía cạnh của vấn đề.
Là Phó Giám đốc Sở Y tế TP.Hồ Chí Minh, đứng ở góc độ y tế, bà đánh giá thế nào về các quy định của Dự luật như người được nhờ mang thai hộ phải là người có quan hệ thân thích cùng hàng của vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ, đã từng sinh con và chỉ được một lần mang thai hộ...?
“Người giàu chắc sẽ không mang thai hộ cho ai”
Điều mà bà băn khoăn nhiều là ranh giới khó phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và sự lợi dụng để mang thai hộ vì mục tiêu thương mại, tuy nhiên, đối với các cặp vợ chồng đã phải tìm đến phương pháp nhờ mang thai hộ thì vấn đề chi phí chỉ là thứ yếu. Vậy có nên lo lắng quá về sự lợi dụng này không, thưa bà?
Thực ra, vấn đề chi phí cũng là một điều tế nhị đối với các cặp vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ và Luật thì cũng không thể quy định chi tiết là nhờ mang thai hộ thì phải trả bao nhiêu tiền?
Nhiều người khi “cực chẳng đã” phải nhờ mang thai hộ thường có tâm lý muốn giấu, ngại người khác biết, liệu quy định của luật có là một trở ngại đối với họ, thưa bà?
- Ở đây, chúng ta phải xác định cái nào là làm đúng, chứ không phải làm theo mong muốn. Mong muốn thì vô cùng, nhưng mỗi cá thể trong xã hội phải tuân thủ sự điều chỉnh của pháp luật, bất kỳ một giao dịch nào trong xã hội cũng phải được pháp luật điều chỉnh. Điều luật không cấm 2 bên giữ bí mật, họ hoàn toàn có thể giữ bí mật về việc nhờ mang thai hộ nhưng phải có một hợp đồng rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên để hạn chế tranh chấp phát sinh.
Có nghĩa là việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nếu được pháp luật điều chỉnh sẽ tốt hơn cho các cặp vợ chồng?
- Đương nhiên là sẽ tốt hơn vì nếu để xảy ra tranh chấp mà không có quy định của pháp luật điều chỉnh thì người yếu thế sẽ là người bị thiệt thòi nhất. Mặt khác, một xã hội dân sự là một xã hội sống theo pháp luật, các quy định của pháp luật phải bao trùm hết các lĩnh vực của đời sống, để người dân không phải tự xử với nhau. Cho nên, xây dựng được điều luật này thì sẽ tốt hơn, nhưng phải cố gắng để trong khả năng của mình khi được ban hành nó khả thi nhất.
Điều 95. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là tự nguyện và phải được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng chưa có con chung;
c) Việc mang thai hộ phải được thực hiện qua việc thụ tinh trong ống nghiệm bằng sự kết hợp giữa noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng;
d) Người được nhờ mang thai hộ phải là người có quan hệ thân thích cùng hàng của vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ, đã từng sinh con và chỉ được một lần mang thai hộ;
đ) Trong trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có hôn nhân thì phải có thỏa thuận bằng văn bản của người chồng về việc đồng ý cho vợ mình thực hiện việc mang thai hộ.