Biểu tượng của công lý
Một trong những “hot trend” (chủ đề được nhiều người quan tâm) thời gian vừa qua là việc Tòa án Nhân dân Tối cao dự định tôn vinh – dựng tượng một vị vua làm biểu tượng công lý và hoạt động xét xử Việt Nam. Ngoài cuốn sách Hình thư, hai vật tượng trưng khác cũng được đưa vào mẫu phác thảo là thanh gươm và cái cân.
Nhìn ra thế giới, ở nhiều quốc gia phương Tây, từ lâu đã coi một nữ thần (tiếng Latin: Justitia) – là biểu tượng của công lý, pháp luật và xét xử. Nữ thần công lý được khắc hoạ với ba dấu hiệu đặc trưng là cầm một thanh gươm biểu tượng cho quyền uy; một chiếc cân để phân định lẽ phải, sự công bằng, không thiên vị và một chiếc khăn bịt mắt tượng trưng cho công lý “mù loà”, chỉ thượng tôn công lý chứ không chịu ảnh hưởng từ bất cứ một “thế lực” nào.
Nhưng không phải ai cũng biết, trong truyền thống Á Đông cũng có một biểu tượng công lý rất đặc sắc và vô cùng ý nghĩa. Đó chính là con giải trãi. Đề cập đến linh vật này, nhà sưu tập và nghiên cứu cổ vật Philippe Trương cho biết: theo truyền thuyết, giải trãi là con vật đứng đầu trong 5 loại linh thú thuộc bộ kỳ lân. Hình tượng con giải trãi đã được thể hiện trên các cổ vật đồng từ thời Chiến Quốc. Trong bộ Luận hành của Vương Sung (27-97, thời Đông Hán) có kể rằng: Cao Dao, một vị hiền thần đời vua Thuấn, có một con dê một sừng gọi là con giải trãi.
Giải trãi được coi là thần thú biểu tượng cho công lý |
Tính con thú này rất ngay thẳng, nó có thể phân biệt người lành hay kẻ ác. Gặp bọn gian tà, nó dùng sừng đâm nhưng không bao giờ chạm đến người hiền. Cao Dao thả giải trãi vào trong ngục để kiểm tra xem có người nào bị bắt oan hay không. Chính vì lý do này nên dưới thời Đông Hán, hình con giải trãi được vẽ trên tường ở nơi xử án hoặc trên ghế của các quan tòa để biểu trưng cho chấp pháp. Người ta đã tìm thấy một pho tượng bằng gỗ thời Đông Hán, thể hiện một con bò, chân guốc, đuôi dựng thẳng, đầu cúi sát ngực với một sừng duy nhất chĩa ra phía trước như sắp trừng trị người phạm tội.
Truyền thống này vẫn tiếp tục dưới thời nhà Đường: hình con giải trãi được dán hai bên cửa phòng xử án và những công thự quan trọng của triều đình, vì giải trãi vừa có thể phân biệt người vô tội với kẻ ác, lại vừa có thể phát hiện và trừng trị các quan chức bất lương. Do đó, giải trãi còn trở thành biểu tượng cho đức độ và sự lương thiện của các quan tòa và các quan ngự sử.
Tới Hàn Quốc (Triều Tiên), giải trãi được gọi là Haetae. Tượng đá Haetae được dựng bên ngoài cung điện Gyeongbokgung ở Seoul dưới thời Joseon (1392-1897). Haetae được tin là có khả năng bảo vệ Hanyang (nay là Seoul, Haetae được coi là biểu tượng của thành phố này) khỏi thảm hoạ tai ương từ thần thánh, đồng thời ban bố và bảo vệ luật pháp, công bằng, lẽ phải khỏi những xấu xa, bất công của xã hội đương thời.
Gắn với hành pháp
Không thể phủ nhận những ảnh hưởng của truyền thuyết phương Bắc nhưng cũng như các linh vật khác (rồng, phượng, kỳ lân…), giải trãi khi “nhập tịch” Đại Việt đã được tiền nhân biến đổi để mang tâm hồn và cốt cách Việt Nam. Theo Nguyễn Lê Thanh Phương (trong bài “Con dê trong nền pháp luật xưa”) thì, ở nước ta từ rất sớm đã truyền miệng câu chuyện về giống thần dương, tức loài dê thần một sừng.
Theo sách Nam ngữ chính tả tự vị, thì trãi là loài dê đời xưa có một sừng, tính trung trực hay húc những kẻ gian tà. Khi xử các nghi án thì cho con trãi ra trước tòa, nó dùng sừng húc vào bên nào thì cho biết bên ấy là kẻ có tội. Một chức quan gắn liền với việc xét xử trong lịch sử Việt Nam chính là ngự sử. Ngự sử đài được thiết lập từ thời Trần (1225 - 1400). Cơ quan này đảm nhiệm việc duy trì phong hóa pháp độ, được phép vạch tội tất cả các quan, thậm chí can gián cả nhà vua, mỗi khi phát hiện họ làm điều gì trái pháp luật hay trái đạo đức.
Người giữ chức quan ngự sử không những rất tài giỏi, am hiểu sâu sắc về pháp luật mà còn phải liêm khiết, trung thực, dũng cảm. Đến thời Nguyễn, tên gọi của Ngự Sử Đài được thay bằng Đô Sát Viện song quyền hạn và chức vụ không thay đổi. Đô sát viện là một tổ chức tư pháp quan trọng trong triều đình với nhiệm vụ “chuyên giữ việc dâng nộp, xét hạch, chỉnh đốn phép quan để nghiêm phong hóa pháp luật”.
Và giải trãi chính là linh vật biểu tượng cho ngự sử quan. Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí (tập Lễ nghi chí) cho biết, đô ngự sử, ngự sử, đề hình, hiến sứ, cai đạo đều dùng mũ giải trãi, bổ tử (miếng vải vuông đính ở ngực và lưng phẩm phục quan lại) cũng thêu hình con giải trãi. Thời Trần Anh Tông, Trần Thì (Thời) Kiến, làm An phủ sứ phủ Thiên Trường, sau đó thiên qua nhiều chức vụ khác như: Kiểm pháp quan kiêm chức Đại An phủ sứ Kinh sư. Cuối đời ông được thăng đến chức Tả bộc xạ - Tể tướng.
Trần Thì Kiến nổi tiếng thanh liêm, công bằng và có tài biện luận trong xử kiện. Tương truyền, có người cùng quê nhân ngày giỗ đem biếu ông mâm cỗ, Trần Thì Kiền hỏi lý do, người kia trả lời rằng vì hàng xóm nên biếu chứ không xin điều gì.
Sau người kia lại đến xin, ông liền móc họng để nôn ra trả. Khi dùng Trần Thì Kiến làm hành khiển, vua Trần Anh Tông đã cho ông một cái hốt có khắc bài minh rằng: “Thái sơn chót vót, hốt ngà oai nghiêm, linh trãi dâng sừng, làm hốt khó gãy” (nguyên văn: thái sơn trinh cao, tượng hốt trinh liệt, linh trãi tiến dác; vi hốt nan chiết).
Tên “Trãi” còn gắn với cuộc đời và tài năng của một con người kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, đó chính là Nguyễn Trãi. Nguyễn Phi Khanh, người đỗ đại khoa cuối đời Trần sang Hồ, bậc tri thức rất hiểu pháp luật đặt tên con mình là “Trãi”. Và vị anh hùng dân tộc gắn với đức tính trung thực, ngay thẳng Nguyễn Trãi, từng làm Ngự sử đài Chánh chưởng nắm giữ pháp luật đời Hồ, có góp phần giảng, biên soạn hình luật đời Lê Sơ đã rất xứng đáng với tên đẹp ấy.
Mang hình dáng Việt
Vào năm 2010, có một tượng bằng vàng, niên đại thời Nguyễn, cao 12cm, nặng hơn 200gram được đưa ra bán đấu giá ở Paris với giá 12.000euro. Theo Philippe Trương thì con vật trên chính là tượng con giải trãi được đúc dưới thời Minh Mạng năm 1837. Điều đặc biệt ở chỗ nếu như con giải trãi trong truyền thống Trung Hoa là một loài thú dữ, bản tính rất hung hăng, “khi nổi cơn thịnh nộ, chúng ăn cả lừa” (có thể thấy rõ điều này qua tượng giải trãi bằng đồng ở cố cung Bắc Kinh) thì hình tượng con giải trãi đúc dưới thời Minh Mạng hoàn toàn khác.
Đó là pho tượng thể hiện một con thú, trông như con dê hoặc con hươu, nhưng chân của con thú này lại có móng vuốt, khác với loài dê hay hươu có bộ chân guốc; đuôi con thú xòe như đuôi bò; trên lưng có bờm như trên lưng con kỳ lân. Trên thân có chạm nổi văn mây xoắn và lửa, để chứng minh đây là một loại linh vật. Theo nhận xét của Philippe Trương: Một điều rất thú vị là nhà vua không chọn hình con giải trãi theo kiểu Trung Hoa thời Minh - Thanh, rất giống loài kỳ lân, mà sáng chế nên một mẫu giải trãi riêng của Việt Nam, rất gần gũi với hình ảnh của con sao la.
Hiện tại, tất cả các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và châu Âu đều công nhận là con giải trãi thời Chiến Quốc (thế kỷ V - 256 trước CN) và Đông Hán chính là con sao la (tên khoa học là Pseudoryx nghetinhensis). Các họa sĩ thời Chiến Quốc và Đông Hán khi vẽ con thú này thì vẽ nghiêng nên chỉ thể hiện một sừng.
Càng đặc biệt hơn khi sao la chính là loài vật được mệnh danh là “kỳ lân châu Á” hiện chỉ còn sinh sống ở vùng rừng núi Trường Sơn. Và sẽ thật ý nghĩa nếu như ngành xét xử Việt Nam chọn con vật này là biểu tượng thì đó sẽ vừa là sự kế thừa truyền thống những đồng thời cũng tôn vinh giá trị Việt.