Số phận kỳ lạ của chuông cổ vừa được công nhận là bảo vật quốc gia

(PLVN) - Chuông Nhật Tảo là cổ vật độc bản, quả chuông duy nhất thế kỷ X được phát hiện Việt Nam cho đến nay. Bản minh văn được khắc trên thân chuông đã giúp tái hiện lại một phần đời sống, văn hóa xã hội và chính trị của Việt Nam dưới thời Tiền Ngô Vương (Ngô Quyền). Chuông Nhật Tảo vừa được Thủ tướng công nhận là bảo vật quốc gia đợt 8, ký ngày 15/01/2020.
Đình làng Nhật Tảo

Dấu ấn ngàn năm trên chuông đình Nhật Tảo 

Theo TS. Bùi Xuân Đính, làng Nhật Tảo tên cũ là Nhà Kiểu hay Nhật Cảo, nay là một thôn của phường Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ở ngay bờ sông Hồng, bên bến đò Chèm. Có hai thuyết giải thích về tên làng. Một thuyết cho rằng, do dân làng nghèo khổ, hàng ngày phải tần tảo kiếm ăn nên gọi là Nhật Tảo. Còn thuyết thứ hai cho rằng, tên “Nhật Tảo” để chỉ ước vọng của dân làng mong cuộc sống mỗi ngày một sáng sủa, tốt đẹp. Nhật là mặt trời, cũng có nghĩa là ngày, Tảo là chiếu sáng.

Việc chuông đình Nhật Tảo được công nhận là bảo vật quốc gia, trở thành niềm vui, tự hào của người dân nơi đây. Theo cụ Nguyễn Lâm Thao (83 tuổi) – trưởng Tiểu ban di tích đình Nhật Tảo cho hay: “Xưa kia, đối với người dân Nhật Tảo chúng tôi quả chuông đồng nhỏ này chỉ giống như bao quả chuông khác, dùng để đánh mỗi khi làm lễ. Những năm 1951-1953, thực dân Pháp chiếm đình Nhật Tảo, làm bốt đóng quân, chúng cho xây 4 lô cốt ở 4 góc đình, sau đó dân làng phải sơ tán toàn bộ đồ thờ tự và đồ tế khí của đình về Văn Chỉ của làng, trong đó có quả chuông này.

Những năm kháng chiến, đình làng còn được dùng làm lớp học, chiếc chuông đồng khi đó vẫn được dùng làm tín hiệu báo giờ cho học sinh… Đến 1994, dân làng tổ chức rước toàn bộ đồ thờ tự và tế khí trở lại đình. Tháng 3/1995, khi làm hồ sơ xếp hạng di tích thì phát hiện ra quả chuông cổ này”.

Trước khi được công nhận bảo vật quốc gia, quả chuông cổ này đã phải nhiều năm long đong nơi xóm nghèo  

Còn theo các nhà nghiên cứu, năm 1987, ông Phạm Văn Thắm - cán bộ Viện nghiên cứu Hán Nôm đã tìm thấy quả chuông ở miếu thờ đức thánh Trần, thôn Nhật Tảo. Sau đó, quả chuông được đem về cất giữ ở đình làng Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đại diện Tiểu ban quản lý di tích đình, chùa Nhật Tảo chia sẻ, từ lúc biết quả chuông đồng có niên đại đến hơn 1.000 năm, Tiểu Ban quản lý di tích đình, chùa Nhật Tảo đã nghĩ ra nhiều biện pháp bảo vệ cũng như bảo quản báu vật này. Sau khi được phát hiện, các nhà điêu khắc đã nghiên cứu và đánh giá chuông đình Nhật Tảo là quả chuông duy nhất ở thế kỷ X, được phát hiện ở Việt Nam cho đến nay. 

Từ kích thước cho đến hình dáng, chuông có sự khác biệt lớn so với hệ thống chuông chùa ở Việt nam từ xưa tới giờ. Nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật đúc đồng thời bấy giờ thể hiện qua các họa tiết trang trí trên thân chuông khiến các nhà nghiên cứu kinh ngạc. Trong những chuông cổ được công nhận Bảo vật quốc gia thì chuông Nhật Tảo có kích thước nhỏ nhất. Chuông chỉ cao vỏn vẹn 0,32m, nặng 5,4 kg đường kính miệng 0,19m.

Chuông được đúc theo lối thượng thu hạ thách – trên thon, dưới nở. Quai chuông đúc nổi đôi thú đấu lưng vào nhau, uốn cong tạo thành núm treo chuông. Đôi thú có đầu to, mắt lồi, hai sừng thẳng, bờm ôm sát đầu, thân có vảy, hai chân và miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông tạo thế vững chắc cho quai chuông. Chỏm quai chuông có hình núm tròn dẹt nhô lên nhưng không giống hình hồ lô như trên các quai chuông sau này. Đỉnh chuông bằng, vai xuôi, thân hình trụ, miệng loe có gờ, thành chuông dày. Thân chuông được phân cách bởi 5 đường đúc nổi ngang dọc, tạo thành 8 ô, phần trên là 4 ô hình thang đứng, phần dưới là 4 ô hình chữ nhật. 

Nằm giữa 5 đường đúc nổi nêu trên là 4 núm gõ dùng để đánh chuông, núm tròn, tạo hình bông hoa nở, xung quanh có 12 cánh hoa. Phần trên của mặt ngoài chuông khắc chìm chữ Hán, theo lối chữ chân, còn khá rõ, phủ kín cả 4 ô hình thang và khoảng trống giữa những đường đúc dọc (gồm 27 cột, 211 chữ).

Sử liệu chữ viết sớm nhất về đất nước Vạn Xuân

Bản minh văn trên thân chuông Nhật Tảo được các nhà nghiên cứu coi là một trong những sử liệu chữ viết sớm nhất của thời kỳ tự chủ từ thế kỷ X mà hiện nay ta có. Nó cung cấp cho chúng ta những thông tin vô cùng quý báu về đất nước Vạn Xuân (Việt Nam) dưới thời vua Ngô Quyền (trị vì nước Vạn Xuân từ năm năm 939 đến năm 944) mà sử liệu thành văn của nước ta không có nhiều.

Dưới đây là bản dịch của giáo sư Hà Văn Tấn: “Thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ vào ngày 29 tháng tư năm Mậu Thân, niên hiệu Cản Hòa thứ 6, các đệ tử Vô pháp môn là đô xã chủ đại tức Đỗ Pháp Dao, xã phó Kim Huyền Kỳ, xã vụ Lý Huyền Tháo, đô giám Trần Huyền Đàm, lục sư Trần Pháp Tuyên, Trần Tiên Cao, cao công Đỗ Pháp Tính, Lý Thủ Sơ, đại đức Đỗ Tiên Liêu, Ngu Tiên Hựu, Lý Tiên Thọ, Trần Khả Lôi, Ngô Tiên Lữ,

Phùng Thừa Tư, Trần Ngạn Ung, Lý Thiệu Vị, Phí Khuông Nhâm thuộc hai phái Đạo và Nho từ năm Giáp Thìn (944) đã chung nhau góp tiền vẽ một bức tranh Thái Thượng Tam tôn. Chưa đến năm, lại làm 6 chiếc phướng bán thứ quan, xong làm cỗ chay mừng hoàn tất. Nay cũng đưa ra việc mua một quả chuông báo, nặng 15 cân để cúng Giàng mãi mãi. 

Nhưng bọn Đỗ Pháp Dao kính cẩn tu theo đại pháp của trời đất, để báo đáp tứ ấn đều được lợi ích. Xin cho chúng nhân một hội, mang lục căn, tam diệp, muôn vàn lỗi lầm, tắm gội thiện duyên này đều hy vọng được trường cửu. Chay mừng xong, ghi lại”.

Trước hết, về thời gian và địa điểm trên chuông. Bài minh được viết năm Càn Hòa thứ 6 (năm 948). Theo các nhà nhiên cứu, Càn Hòa là niên hiệu của Lưu Thạnh, vua nước Nam Hán, một nước thời Ngũ Đại Thập Quốc, đóng đô ở Quảng Châu. Tuy nhiên, đây là chuông Việt Nam, không phải chuông Trung Quốc, vì tên địa danh ghi ở bài minh đã xác nhận điều đó. Trong bài minh có nhắc đến năm Giáp Thìn, tức năm 944, là năm Ngô Quyền mất. Chúng ta đều biết, sau đó Dương Tam Kha đã cướp ngôi vua, xưng là Bình Vương. Năm 948 là năm Dương Tam Kha đã ở ngôi vua được 4 năm.

Như vậy, ta có thể biết, tuy Ngô Quyền đã giành lại nền độc lập, xưng vương, nhưng vẫn chưa có niên hiệu. Cho nên, để ghi năm tháng cho các văn bản trong nước ta thời đó, người ta phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù rằng, đạo quân xâm lược của nước này đã bị Ngô Quyền đánh bại ở sông Bạch Đằng năm 938. Nội dung minh văn có nhắc đến địa danh hành chính vào thế kỷ X vẫn được giữ lại từ thế kỷ VII-VIII như: huyện Giao Chỉ. Đặc biệt, bài minh trên chuông cho ta biết một tên thôn là “Hạ Từ Liêm” ở huyện Giao Chỉ năm 948.

Theo các nhà nghiên cứu, tên “Từ Liêm” đã xuất hiện từ sớm. Sách “Nguyên Hòa quận chí” còn nhắc đến sông Từ Liêm. Theo sách “Cựu Đường thư”, năm 621, đã tách một phần huyện Giao Chỉ, lập huyện Từ Liêm, nhưng sau đó thì bỏ, nhập vào huyện Giao Chỉ. Nhưng rõ ràng là “thôn Hạ Từ Liêm” là ở trong huyện Từ Liêm thời thuộc Đường và quả chuông Nhật Tảo này, bài minh cũng nhắc tới huyện Từ Liêm. 

Từ đây có thể thấy rằng, hiện tại, quả chuông không rời quá xa “thôn Hạ Từ Liêm” được viết trong bài minh. Đồng thời, cũng qua đây, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn có sự tồn tại của đơn vị hành chính “thôn” ở nước ta rất sớm, từ thế kỷ X. 

Bên cạnh đó, nội dung bài minh chuông Nhật Tảo còn đề cập đến công việc của một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ gọi là “xã”. Ta đã gặp một “xã” như vậy trên chuông Thanh Mai (thế kỷ thứ VIII, 798), tên là “Tùy Hỉ xã”, còn xã trên chuông Nhật Tảo thì không thấy chép rõ tên. Có nhiều chức danh giống nhau giữa hai chuông như: “xã chủ, xã phó, xã phán quan, xã lục sự”. Cũng có những chức danh chỉ thấy trên chuông Thanh Mai, không thấy trên chuông Nhật Tảo, như: “xã Chi Khiển, xã Bình Chính, xã Khổng Mục…”

Điều khác nhau quan trọng là “xã” trên chuông Thanh Mai là một “xã Phật giáo”, còn “xã” trên chuông Nhật Tảo là một “xã Đạo giáo”. Tất cả những người trong xã này đều coi là “đệ tử của Vô pháp môn”. Tên của những người trong “xã” không phải là tên húy, mà chỉ là đạo hiệu hay pháp danh. Những pháp danh này thường bắt đầu bằng các từ Pháp, Huyền, Tiên, Đạo, như Đỗ Pháp Dao, Trần Pháp Tuyên, Kim Huyền Ký, Lý Huyền Tháo, Trần Tiên Cao, Đỗ Tiên Liêu, Ngu Tiên Hựu…

Những cái tên như vậy cho thấy những người đó là tín đồ Đạo giáo, nhất là những cái tên được đệm bằng các từ Huyền và Tiên (vì mục đích tu của Đạo giáo là thành tiên). Khác với Phật giáo (những nhà sư thường coi mình mang họ Thích, họ của Thích ca), những người theo Đạo giáo bao giờ cũng giữ lại họ của mình.

Ngoài ra, bài minh trên quả chuông Nhật Tảo còn cho chúng ta biết các chức danh trong Đạo giáo như: “Cao công”, hay hai lần nhắc đến việc “trai khánh”. Cũng qua bài minh này, chúng ta biết rằng, vào thế kỷ X ở nước ta, đã có sự song hành, hỗn dung giữa Đạo giáo và Phật giáo.

Khi chúng ta gặp các từ ngữ của Phật giáo như: “tứ ân”, “thiện duyên”, “lục căn”, “tam diệp” (tức “tam nghiệp”) …. Như vậy, Đạo giáo vốn được nuôi dưỡng trong đời sống tín ngưỡng cộng đồng, đến thế kỷ X, bắt đầu dung hợp với Phật giáo để tạo nên một sắc thái riêng trong đời sống xã hội. Đồng thời, cũng qua bài minh trên quả chuông Nhật Tảo, cho chúng ta biết rõ hơn về Đạo giáo trong thế kỷ X.

Qua bố cục bài minh văn và tự dạng, ta biết được văn bản được khắc cùng một thời điểm và là văn bản khắc lần đầu. Hoàn toàn không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Niên đại của văn bản khắc trên thân chuông và niên đại của chuông là một, hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là: ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức ngày 9/6/1948).

Các nhà nghiên cứu đánh giá rằng, chuông Nhật Tảo có bản minh văn rất cụ thể, là nguồn sử liệu chân thực, ý nghĩa đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu xã hội người Việt thời tự chủ. Hơn thế nữa, quả chuông và minh văn năm 948 là sử liệu vô cùng quan trọng và quý giá, giúp chúng ta tìm hiểu nhiều vấn đề lịch sử làng xã, tôn giáo, đặc biệt là Đạo giáo trong đời sống tâm linh của người Việt ở thế kỷ X.

Cũng qua bài minh, cho chúng ta biết đây là tài liệu hiện vật đầu tiên và duy nhất được biết cho tới nay thể hiện mối quan hệ song hành giữa Đạo giáo và Phật giáo, làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Đạo - Phật - Nho cùng đồng hành trong đời sống tâm linh của người Việt vào thời Lý - Trần.

Đọc thêm