Hai phương án tăng tuổi nghỉ hưu
Lực lượng lao động tham gia thị trường lao động của Việt Nam trong những năm gần đây đang tăng chậm cả về số lượng và tỷ lệ. Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy cuối năm 2013 cả nước có 53 triệu lao động, cuối năm 2018 có 55 triệu lao động. Sau 5 năm chỉ tăng thêm có 2 triệu lao động, trung bình mỗi năm chỉ tăng thêm 400.000 lao động.
Thực trạng này có nguyên nhân từ quy mô, cơ cấu dân số của Việt Nam đang thay đổi theo hướng: tỷ lệ người trong độ tuổi có khả năng lao động giảm do tác động của quá trình già hóa dân số, tỷ lệ số người phụ thuộc đang tăng lên (44,4% vào năm 2019).
Thống kê của BHXH Việt Nam cho thấy, tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 chỉ là 54,17 tuổi, trong đó tuổi nghỉ hưu của nam là 55,61 tuổi, thấp hơn gần 4,4 tuổi và nữ là 52,56 tuổi, thấp hơn 2,44 tuổi. Trong khi đó, chất lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của người lao động ngày càng tăng (tuổi thọ bình quân của nam là 72,1 tuổi, của nữ là 81,3 tuổi; và cả hai giới tính là 76,6 tuổi, cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới là 72 tuổi).
Từ hai khía cạnh này có thể thấy, lực lượng lao động Việt Nam không quá dồi dào và sẽ đối mặt với nguy cơ thiếu hụt trong tương lai. Trong khi đó người lao động lại phải sớm rời thị trường lao động dù vẫn đủ sức khỏe và năng lực dẫn đến tình trạng lãng phí nhân lực. Vì thế, nhiều ý kiến cho rằng cần thiết phải hoàn thành lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu trước khi Việt Nam đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động trong khoảng 20 năm.
Theo Dự thảo Bộ luật Lao động mà Bộ LĐ-TB&XH chuẩn bị trình Quốc hội thì có 2 phương án để tăng tuổi hưu. Phương án 1, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với nam và 4 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Phương án 2, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 4 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi 6 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với nam và 6 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung thì hai phương án này đều cho thấy lộ trình tuổi nghỉ hưu sẽ là lộ trình tăng chậm. Vì sao phải chọn lộ trình tăng chậm, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung lý giải chính là để tránh gây sốc cho thị trường lao động. Con số tính toán cho thấy, một quốc gia có quy mô dân số tương đương dân số của Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động và 400 ngàn người bước vào độ tuổi nghỉ hưu.
Nếu tăng tuổi nghỉ hưu lên 1 tuổi/năm, có nghĩa là sẽ có 400 ngàn người tiếp tục làm việc, cho dù ở khu vực nhà nước hay khu vực doanh nghiệp mà bình thường họ sẽ nhường chỗ cho 400 ngàn người mới tham gia thị trường lao động, thị trường lao động sẽ bị tắc nghẽn. Sau 2 năm, con số này sẽ là khoảng 800 ngàn người và mức độ tắc nghẽn sẽ tăng lên.
Cũng theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, nâng tuổi nghỉ hưu nhanh cũng có thể tạo ra tâm lý không hài lòng đối với một bộ phận lớn người lao động nhất là trong các doanh nghiệp; tạo ra tâm lý không hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư.
Do đó, phương án điều chỉnh dần dần tuổi nghỉ hưu sẽ giúp doanh nghiệp và người lao động thích ứng dần với quy định mới, không gây sốc cho cả doanh nghiệp và người lao động, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Lao động nữ chịu tác động nhiều hơn?
Tại Việt Nam, hiện có 52 triệu nữ giới, 47% trong số đó đang trong độ tuổi lao động. Những ngành nghề sử dụng nhiều lao động nữ là may mặc, dịch vụ, giày da. Con số của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho thấy, tính đến tháng 12/2016, cả nước có 325 khu công nghiệp với 2.989.613 lao động, trong đó, lao động nữ chiếm 63%.
Các doanh nghiệp về lĩnh vực da giày, dệt may, chế biến thủy sản có tỷ lệ lao động nữ chiếm từ 80 - 90%. So sánh tương quan với nhiều quốc gia châu Á, có thể thấy tuổi nghỉ hưu của lao động nữ ở Việt Nam là quá sớm. Nhật Bản đang thực hiện tuổi nghỉ hưu cho nam là 69 tuổi, nữ là 67 tuổi; Hàn Quốc đang thực hiện tuổi nghỉ hưu cho cả nam và nữ là 60 tuổi…
Theo Bộ LĐ-TB&XH, việc Việt Nam nâng tuổi nghỉ hưu lên nam 62 tuổi, nữ 60 thay vì tăng cân bằng tuổi nghỉ hưu của nam và nữ tuổi là cần thiết, vì hầu hết các quốc gia khi điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu đều có một lộ trình để thu hẹp dần khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ. Tuy nhiên, mục tiêu chung và lâu dài của Việt Nam vẫn là tiến tới quy định tuổi nghỉ hưu của nam và nữ bằng nhau.
Mặc dù có lộ trình nhưng từ hai phương án của Bộ LĐ-TB&XH có thể thấy lao động nữ sẽ chịu tác động nhiều hơn đối với điều chỉnh tăng tuổi hưu so với lao động nam vì tuổi hưu của nữ sẽ từ 55 tăng lên 60 chênh lệch 5 năm , của nam từ 60 lên 62 chỉ chênh lệch 2 năm.
Tại hội thảo tham vấn ý kiến vào dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi mới đây, đánh giá tác động giới với phương án nâng tuổi hưu của nam lên 62 tuổi, nữ lên 60, bà Dương Thị Thanh Mai, Trưởng nhóm Đánh giá tác động giới của Bộ luật Lao động cho biết, phương án tăng tuổi hưu giảm khoảng cách giới về tuổi hưu giữa nam và nữ, tuy nhiên tác động nhiều hơn đối với lao động nữ do điều chỉnh tăng tuổi hưu nhiều hơn (5 năm so với lao động nam chỉ tăng 2 năm.
Theo bà Mai, hạn chế của phương án là chưa xóa được khoảng cách giới trong tuổi hưu. Đồng thời có nguy cơ làm phát sinh các bất bình đẳng mới ngay trong một giới (nam hoặc nữ) do điều kiện, năng lực, trình độ của người lao động ở các vị trí, tính chất công việc, ngành nghề khác nhau không phù hợp với việc kéo dài tuổi nghỉ hưu, dẫn đến khoảng cách về việc làm, thu nhập giữa các nhóm khác nhau.
Từ khi Bộ luật Lao động mới bắt tay vào sửa đổi cũng đã có nhiều quan điểm về sự bình đẳng trong tăng tuổi hưu nam và nữ. Trả lời báo chí, ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội từng nêu quan điểm, nếu quy định tuổi nghỉ hưu của nam và nữ bằng nhau ở mức 60 hoặc 62 tuổi chưa chắc đã là bình đẳng.
“Nên nhớ rằng phụ nữ còn thiên chức làm mẹ, làm vợ, thiên chức gia đình. Có thể tuổi nghỉ hưu bằng nhau mới là bình đẳng, cũng có thể thấp hơn nhưng vẫn bảo đảm sự bình đẳng. Khi bàn về vấn đề này còn cần cân nhắc tới các yếu tố như tâm lý, sinh lý, yếu tố con người", bà Mai nói.