Lễ nghi tôn vinh cây lúa mẹ
Từ lâu đời, lúa là cây lương thực chính gắn liền với đời sống của các dân tộc có nền văn minh lúa nước. Từ thời tiền sử, cây lúa được suy tôn và trở thành tín ngưỡng thiêng liêng đối với họ. Riêng cây lúa rẫy (còn gọi là lúa cạn) thường được các dân tộc thiểu số trồng trên nương rẫy, có thời gian và chu kỳ sinh trưởng lâu ngày.
Người Raglai và K’ho sinh sống tại 4 xã miền núi, vùng cao huyện Bắc Bình, gồm: Phan Lâm, Phan Sơn, Phan Điền, Phan Tiến. Đến mùa gieo hạt đều chọn một khu đất cao ráo trên núi để trồng cây lúa mẹ. Đất phải hội đủ điều kiện là đất tốt, màu mỡ, đảm bảo độ ẩm để cây lúa mẹ phát triển trong môi trường thời tiết nắng hạn và phải đảm bảo các yếu tố tâm linh.
Do vậy, rất nhiều lễ nghi mang nguồn gốc từ nông nghiệp vẫn được duy trì như: lễ cúng rẫy cũ, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, dọn rẫy mới. Khi trồng lúa, đặc biệt là cây lúa mẹ, họ có có những nghi lễ theo chu kỳ sinh trưởng của cây lúa như: lễ tỉa hạt, lễ cúng lúa chữa, lễ cúng lúa chín, lễ ăn lúa mới…
Cây lúa mẹ chỉ được trồng trên rẫy chứ không được trồng dưới ruộng nước. Thời gian sinh trưởng, thu hoạch lúa mẹ là 6 tháng. Giống lúa mẹ là loại lúa rẫy hạt to, dẻo và rất thơm có từ lâu đời ở địa phương được người xưa tuyển chọn và lưu giữ từ đời này qua đời khác.
Thi giã gạo trong dịp Tết Đầu lúa. |
Sau 6 tháng, cây lúa mẹ ở trên rẫy với nhiều lễ nghi và công sức chăm bón của con người, hạt lúa đã chín vàng và được thu hoạch. Khi thu hoạch, đồng bào tuốt lúa mẹ từng chùm bằng tay chứ không được dùng liềm cắt hoặc hái như lúa con.
Thu hoạch xong lúa mẹ, người Raglai và K’ho thực hiện nghi thức cúng tế để nhập lúa mẹ vào kho, sau đó các gia đình chuẩn bị đón Tết Đầu lúa (còn gọi là Tết Nhôvre H’rê). Đây là chuỗi lễ nghi chính trong năm như Tết Nguyên đán của người Kinh.
Theo các bậc cao niên ở xã Phan Lâm, gần nửa thế kỷ trước, Tết Đầu lúa của người Raglai và K’ho diễn ra suốt trong tháng Chạp âm lịch, có khi còn kéo dài đến nửa đầu tháng Giêng. Theo phong tục xưa, hễ nhà nào thu hoạch lúa mẹ và mùa vụ xong là có thể ăn Tết Đầu lúa trước, nhà nào thu hoạch mùa vụ chậm thì ăn sau. Các nghi thức lễ truyền thống trong Tết Đầu lúa ở mỗi gia đình chỉ diễn ra trong vòng 2 ngày.
Khoảng 30 năm trước, nhận thấy đời sống vật chất của người dân còn nhiều khó khăn, nếu để thời gian vui Tết Đầu lúa của đồng bào diễn ra theo tập tục cũ sẽ gây ra sự lãng phí tốn kém, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội. Chính quyền địa phương đã vận động các già làng, các bậc cao niên và đồng bào bỏ bớt các thủ tục lạc hậu gây tốn kém.
Từ đó, Tết Đầu lúa của người Raglai và K’ho ở huyện Bắc Bình lấy ngày rằm tháng Chạp làm ngày lễ chính. Việc làm này của chính quyền địa phương đã đưa lại nhiều lợi ích về kinh tế, tiết kiệm được thời gian, lại đảm bảo về lễ nghi, phong tục của ông bà nên đã được đồng bào đồng thuận, hưởng ứng thực hiện cho đến ngày nay.
Đặc sắc Tết Đầu lúa
Rằm tháng Chạp vừa qua, các buôn làng thuần dân tộc Raglai và K’ho ở 4 xã nói trên đồng loạt tổ chức cúng lễ Tết Đầu lúa. Khi cúng lễ, một cây nêu cao hơn 5m được dựng lên giữa làng. Các hình tượng chim thú, con người, công cụ lao động... được đẽo vót, chạm trổ bằng tre tươi hoặc cây gỗ, treo quanh cây nêu, đong đưa trước gió.
Chiều ngày Tết Đầu lúa, già Mang Lầu (già làng người Raglai ở xã Phan Điền) mặc trang phục truyền thống với 3 màu chủ đạo: đỏ, đen và vàng, trên đầu vấn khăn có tua. Già bày mâm lễ vật, gồm: ché rượu cần, con gà luộc, chuối chín, cơm trắng, trứng gà, trầu cau, nước lã và rượu trắng ra tấm chiếu đặt sau cây nêu.
Rắc một ít trầm hương vào chén than cháy, khói tỏa lên từng làn nghi ngút, già Lầu chắp tay khấn, đọc những câu bằng tiếng Raglai với ý nghĩa mời các vị thần sông, thần núi, ơn trên, ông bà tổ tiên… về dự lễ, chứng giám.
Lúc này, một nhóm nam thanh nữ tú và đàn ông đàn bà gần 20 người trong trang phục truyền thống đi vòng quanh nơi già Lầu đang cúng. Họ múa hát theo nhịp điệp mã la, trống, sáo và khèn bầu. Câu ca hòa điệu cùng tiếng già làng khấn vái.
Kết lễ, già Lầu rót nước và rượu rưới xuống đất, rồi kính cẩn nói lời tạ ơn các vị thần bảo hộ xứ sở năm vừa qua đã phù hộ cho dân làng được bình yên, khỏe mạnh, mùa màng no đủ.
Ngoài lễ cúng chung do già làng thực hiện, từng gia đình trong buôn làng còn tổ chức ăn Tết Đầu lúa tại nhà riêng. Tùy hoàn cảnh gia đình mà mâm cúng lớn hay nhỏ nhưng phần lớn là cúng gà. Đặc biệt, dù cúng món gì đi nữa thì ché rượu cần là không thể thiếu trong dịp này.
Và, để tạo sân chơi cho bà con trong dịp Tết Đầu lúa, đồng thời gắn kết tình đoàn kết, giao lưu, nhiều năm nay, huyện Bắc Bình tổ chức ngày hội văn hóa thể thao các xã vùng cao luân phiên giữa 4 xã. Năm nay, trong 2 ngày 26 và 27/1 (nhằm ngày 14 và 15 tháng Chạp), bà con tập trung về xã Phan Lâm để cắm trại và vui chơi.
Ngoài các hoạt động giao lưu văn nghệ, ca múa hát, ngày hội còn diễn ra các trò chơi dân gian như: thi gùi nước về làng, thi giã gạo, đi cà kheo… Đặc biệt, đêm hội Tết Đầu lúa là hoạt động vui nhộn và đặc sắc nhất trong ngày hội. Hòa trong tiếng trống, tiếng kèn, các chàng trai, cô gái say sưa trong những điệu nhảy quanh lửa trại, tạo nên một đêm hội nhộn nhịp, rộn rã.
Ông Huỳnh Văn Vinh - Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Thông tin và Thể thao huyện Bắc Bình, cho biết: “Các dân tộc thiểu số ở các xã miền núi huyện Bắc Bình có bản sắc văn hóa riêng rất đặc sắc, đó là vốn quý mà chúng tôi đang khuyến khích bà con giữ gìn và phát huy giá trị”.
Được hòa mình vào những ngày Tết Đầu lúa của đồng bào Raglai và K’ho ở 4 xã vùng cao huyện Bắc Bình, mới hiểu được giá trị của một loại hình văn hóa phi vật thể tồn tại lâu đời và thấy niềm đam mê, phấn khởi, hạnh phúc của mọi người.
Đặc biệt, các cụ già trong vui Tết vẫn không quên truyền đạt và dạy cho con cháu trong gia đình, dòng họ những cách thức, cử chỉ trong từng lễ nghi nhỏ, cả việc chỉ dẫn cách cầm cồng chiêng, cách đánh, động tác đi tới, đi lui… Việc làm ấy là mong muốn lớp trẻ ngày nay hãy giữ gìn những lễ nghi của ông bà như một trọng trách, vì đó là một phần bản sắc văn hóa của dân tộc.
Tết Đầu lúa của người Raglai và K’ho ở 4 xã vùng cao huyện Bắc Bình là sắc thái văn hóa riêng biệt, độc đáo góp phần bảo tồn nét văn hóa và nghệ thuật dân gian, đa sắc, muôn màu làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở tỉnh Bình Thuận.