Theo Bộ LĐ-TB&XH, năm 2018, số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đạt gần 143 nghìn lao động và là năm thứ ba liên tiếp đạt con số cao về việc người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó có gần 50.000 lao động nữ, thị trường đông nhất là Nhật Bản, tiếp đến là Đài Loan, Hàn Quốc, Ả rập – Xê út…
Người lao động Việt Nam được đánh giá cao bởi sự tiếp cận nhanh với công việc và môi trường lao động của nước sở tại. Một số ngành nghề mà Việt Nam có khả năng đáp ứng tốt gồm điều dưỡng, hộ lý và lao động trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, may mặc, xây dựng, lao động có tay nghề, kỹ thuật cao.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã và đang từng bước chủ động tìm kiếm, phát triển thị trường đầu tư bài bản cho công tác tạo nguồn lao động và đào tạo nâng cao tay nghề, ngoại ngữ, kiến thức văn hóa, xã hội cho người lao động trước khi xuất cảnh.
Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo quy trình chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Hiện nay tổng số doanh nghiệp có giấy phép dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là 362 doanh nghiệp.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo nhiều hình thức và mô hình như mô hình thông qua các nghiệp đoàn đang thực hiện với Nhật Bản khá hiệu quả. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra tại các doanh nghiệp hoạt động về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được tăng cường, qua đó kịp thời phát hiện và đề xuất xử lý các vấn đề vi phạm.
Bên cạnh dòng lao động ra nước ngoài làm việc, trong những năm gần đây, số lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam cũng có xu hướng tăng.
Hiện nay cả nước có trên 80.000 người lao động nước ngoài, trong đó đa số được cấp giấy phép lao động (chiếm trên 90% tổng số lao động nước ngoài thuộc diện cấp giấy phép lao động); số còn lại không thuộc diện cấp giấy phép lao động hoặc đang làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Các văn bản pháp luật quy định việc quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam được ban hành tương đối đầy đủ và đồng bộ.
Tuy nhiên, trong buổi hội thảo quốc tế chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy việc làm và quản lý lao động giữa Bộ LĐ-TB&XH và Cơ quan liên bang về dịch vụ Việc làm ROSTRUD - Liên Bang Nga, lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH đã thẳng thắn chia sẻ, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: việc phối hợp thực hiện trong quản lý còn hạn chế, công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức; ý thức tự giác chấp hành pháp luật của một số nhà thầu và người lao động nước ngoài trong việc tuyển, sử dụng và thực hiện cấp giấy phép lao động, xuất nhập cảnh và cư trú còn hạn chế, nhiều người lao động nước ngoài vào Việt Nam mới thực hiện việc cấp giấy phép lao động.
Do đó, năm 2019, Việt Nam chủ trương tiếp tục mở rộng thị trường lao động, chủ động lựa chọn thị trường. Đặc biệt sẽ thống nhất nguyên tắc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài có tổ chức; đồng thời nâng cao chất lượng nguồn lao động thông qua việc đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tay nghề, giáo dục định hướng cho lao động trước khi đưa đi làm việc tại nước ngoài để đảm bảo thu nhập, tính cạnh tranh. Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến việc thúc đẩy ký kết các thỏa thuận hợp tác lao động với các nước.
Đối với lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, rà soát, đánh giá để sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; đẩy mạnh công tác tuyên truyền hướng dẫn và phổ biến các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; rà soát đánh giá và hoàn thiện quy chế phối hợp theo quy định của pháp luật và tình hình thực tế tại địa phương, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam liên quan đến người lao động nước ngoài.