Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo: Thuở nhỏ đã thông minh, lớn lên nuôi ý chí đỗ Trạng để cưới được vợ đẹp

(PLVN) - Thông minh lại hiếu học, chàng trai Nguyễn Đăng Đạo (1651 - 1719, quê ở làng Hoài Bão, tổng Nội Duệ, huyện Tiên Du; nay là xã Liên Bão, Tiên Sơn, Bắc Ninh) từ nhỏ đã nổi tiếng có văn hay chữ tốt. Để lấy được người “trong mộng” Nguyễn Đăng Đạo còn quyết tâm thi đỗ Trạng nguyên, thực hiện lời hứa với chính bản thân và nhạc phụ.
Họa hình trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo.
Họa hình trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo.

Sao rơi giếng ngọc sinh quý tử

Sinh ra ở quê hương văn hiến, trong dòng họ nhà nho gia, một gia đình có người mẹ thông mình nhân đức, cha phong độ hiền tài, Nguyễn Đăng Đạo thuở nhỏ đã tỏ ra hơn người, thông minh đĩnh ngộ, chăm chỉ học hành, có chí nối nghiệp dòng họ.

Tương truyền khi phu nhân Ngọc Nhĩ có thai ông, một đêm mùa hạ trăng sáng như ban ngày, bố ông ra giếng lấy nước, chợt thấy một ngôi sao lớn rơi vào thùng nước bèn lấy khăn chụp miệng thùng lại mang về. 

Sáng hôm sau, bà nói chuyện lại cho Đông Các Nguyễn Đăng Cảo (anh trai của Nguyễn Đăng Minh, bác ruột của Nguyễn Đăng Đạo) nghe việc sao rơi vào thùng nước đêm qua. Ông Đăng Cảo cho là điềm lành, khuyên dùng nước ở thùng đó để ăn uống sẽ sinh qúy tử. 

Bà Ngọc Nhĩ nghe lời, khi thai kỳ đến tháng, bà đã sinh được một con trai, mặt mũi khôi ngô sáng sủa, đặt tên là Nguyễn Đăng Đạo. Bà đỡ thấy thằng bé khác người cũng nghĩ rằng đây chính là Trạng nguyên nên phải tắm rửa sạch sẽ, nuôi nấng chu đáo. 

Khi mới một tuổi, Nguyễn Đăng Đạo được bác ruột Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo rất yêu quý, bế đi chơi khắp nơi và thường khoe với mọi người về Nguyễn Đăng Đạo rằng: "Triều đình ghét ta không cho đỗ Trạng nguyên, nhưng còn thằng bé ngày sau không cho nó đỗ là không được đâu!" 

 

Nguyễn Đăng Đạo khi lên ba tuổi, lại được bác Nguyễn Đăng Cảo cho theo lên biên giới nhân một chuyến đi tiếp sứ nhà Thanh. Sứ Thanh trông thấy Đăng Đạo còn nhỏ tuổi rất lấy làm kinh ngạc, sứ liền hỏi rằng: "Bé như vậy mà đã vượt qua trăm núi nghìn sông lam chướng hiểm trở, vẫn nhanh nhẹn tháo vát, thật là kỳ đồng!". 

Đôi câu đối còn lưu được tại nhà thờ Nguyễn Đăng Đạo ngày nay: "Tam tuế kỳ đồng kinh sứ/ Bắc Thập niên tể tướng trọng triều Nam" trong đó có vế đối "Tam tuế kỳ đồng kinh sứ Bắc" (Ba tuổi kỳ đồng làm kinh ngạc sứ giả Bắc triều) chính là nói sự kiện này trong cuộc đời Nguyễn Đăng Đạo xưa. 

Lên sáu tuổi, Đăng Đạo được gia đình cho đi học, ông nổi tiếng thông minh, nghịch ngợm và học giỏi. Đường đi học phải qua Cầu Chợ tục gọi là Cầu Giếng. Gặp những hôm trời rét nhiều, Đăng Đạo thường phải vào Cầu trú chân cho đỡ rét.

Một hôm, quan huyện đi qua thấy ông đang nằm trong cầu trú rét mà không dậy chào, cho là vô lễ quan huyện bèn tức giận hỏi: "Mày là đứa nào mà thấy quan không dậy chào hỏi?" Ông ngẩng đầu lên đáp: "Tôi là học trò. Quan huyện nói: " Nếu có phải là học trò dòng dõi nhà nho trong huyện này hãy ngồi dậy làm thử một bài thơ nôm tả cảnh trời rét xem có được không? 

Nguyễn Đăng Đạo trả lời: "Tôi làm được". Nói rồi ông suy nghĩ chỉ trong một lúc và ngồi dậy đọc ngay một bài thơ như sau : 

"Phù phù gió thối bụi đường quan/Rét phải nằm co há cỏ cuồng/Cá chửa dương vây miền Bắc Hải/Rồng còn uốn khúc bãi Nam dương/Cất đầu ngảnh lại càn khôn đế/ Cuốn gió mang chào cảnh thổ vương/ Bĩ cực đã rồi thì đến thái/ Sang xuân đầm ấm sẽ thung dung". Quan huyện nghe xong hết lời khen ngợi, nói ông đến kỳ thi tới thế nào cũng chiếm bảng vàng. 

Trên đường đi học, Nguyễn Đăng Đạo cũng thường ngang qua chùa Phật Tích. Chùa nằm trên núi Lạn Kha do vua Anh Tông nhà Lý dựng nên. Chính trong thời kỳ Lê Trung Hưng này, vị sư Trung Hoa Chuyết Công thiền sư, người đã từng đi thuyền vượt bể chở hơn ba vạn quyển kinh Tam tạng sang Nam, lên núi Lạn Kha bỗng như hiểu ra điều gì đã nhận làm sư trụ trì ở chùa Phật Tích.

Nhà sư rất yêu quý Nguyễn Đăng Đạo, mỗi khí ông qua chùa, sư thường lấy trầu cau ra mời. Một hôm, Nguyễn Đăng Đạo đùa, lấy hộp trầu cau ra, viết một chữ "Hiến" vào dưới đáy hộp rồi đi học. Lúc ông trở về, sư đón đường mời vào và bảo rằng: "Đó là chữ "Nam" và chữ "Khuyển" hợp lại. Ta vốn biết nhà thày sẽ là Trạng nguyên của nước Nam, nhưng thày có muốn nổi tiếng cả ở triều đình Trung Quốc hay không?"

Nguyễn Đăng Đạo nghe xong giật mình sụp lạy, xin sư đạy bảo cho. Sư trao cho ông một quyển sách mà dặn rằng: "Đó là một quyển sách bí mật, khoảng năm Sùng Trinh Thuận Trị (niên đại Trung Hoa) bản in bị cháy, nhà thày nên đọc kỹ sẽ thành tài". Nhờ vậy, Nguyễn Đăng Đạo vốn đã thông minh lại càng trở nên thông minh hơn, biết được nhiều điều vượt ra ngoài ý nghĩa của người thường. 

Năm 16 tuổi, ông Đăng Đạo đi thi đỗ tam trường. Đến năm 19 tuổi ông di thi hương đỗ đầu hương cống, được theo với giới đường quan vào học ở Quốc Tử Giảm. Nhà ông ở làng Hoài Bão cách kinh thành Thăng Long xa, thế mà sáng nào Đăng Đạo cũng dậy sớm nấu ăn ra kinh đô kịp nghe giảng sách buổi sáng. Ông tiếp thu kiến thức rất giỏi, tỏ ra có sức học phi thường, được bạn bè đồng học mến phục.  

Lời hẹn đỗ Trạng mới lấy vợ

Vào những ngày Nguyễn Đăng Đạo học tập ở kinh đô hoa lệ, một lần vào tiết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng) chùa Báo Thiên mở rộng cửa đón khách thập phương vào lễ Phật và xem hoa nở. Đăng Đạo cũng vừa đi nghe giảng sách về, thấy ngoài cổng chúa dừng lại một chiếc xe loan có một tiểu thư xinh đẹp cùng đám thị nữ vào tam bảo lễ Phật. Đăng Đạo bèn đi theo, khi tiểu thư xinh đẹp bước vào đứng lễ, Đăng Đạo cũng tiến lên đứng cạnh nàng và khấn to lên rằng: "Nam mô a di đà phật! Cầu phật tổ phù hợp cho vợ chồng con bách niên giai lão". 

Chuyện xảy ra đột ngột bất ngờ, đám thị nữ cả sợ bèn thi nhau xỉa xói, mắng nhiếc Đăng Đạo là vô lễ. May mắn tiểu thư biết đấy là trò nghịch của đám học trò nên không giận, mà quay sang nhắc nhở người hầu: "Ngày xuân lễ Phật, người ta đùa các em đừng nặng lời như thế". Nói rồi nàng lên xe về phủ.

Đăng Đạo thấy cô gái đã đẹp, lại ăn nói trang nghiêm nên mê mẩn tâm thần, lẽo đẽo theo sau xe, quyết định tìm cho rõ nàng ở đâu để tìm cách gặp lại. 

Khi biết tiểu thư ấy là con một viên quan lớn nhà ở chỗ nọ, đêm ấy Đăng Đạo khăn áo chỉnh tề đi vòng ra ngõ sau định tìm cách vượt tường vào phủ, ngồi ở một chỗ khuất gần phòng tiểu thư. Một người thị nữ thoáng thấy bóng người vội báo cho tiểu thư biết. Tiểu thư ra, Đăng Đạo đứng lên chắp tay nói tuôn: "Tôi là danh sĩ Kinh Bắc đến xin quan lớn cho vào làm rể! 

Tiểu thư hoảng sợ vô cùng bảo thị nữ lấy vàng bạc lụa là ra tạ Đăng Đạo và nói rằng: "Thôi đây có chút quà giúp thầy ăn học, thầy nên ra ngay kẻo cha tôi biết được thì nguy đến tính mạng của thầy". Nhưng Đăng Đạo vẫn không chịu trở chân, vẫn ung dung nói: "Thưa tiểu thư, tôi đến đây để cầu hôn chứ không xin vàng lụa!"

Tiếng nói của Đăng Đạo vang vang làm cho cả phủ đều giật mình. Thân phụ tiểu thư vốn là quan Đề lĩnh (quan chỉ huy quân nội thành) nghe chuyện hầm hầm túc giận thét lính trói Đăng Đạo lại chờ đến sáng sớm mai sẽ khai đao. Đám lính quát mắng ầm ầm nên kinh động cả quan Tham tụng Phạm Công Trứ ở kề đó. Phạm Công Trứ bèn cùng lính xách đèn sang thì được Đề lĩnh và nghe kể lại sự việc trên. 

Phạm Công Trứ nghe chuyện cả cười nói với Đề lĩnh: "Việc khác thường chắc người cũng khác thường. Xin ngài hãy cho tôi hỏi vài câu cho rõ đã. Đề lĩnh chấp thuận cho giải Đăng Đạo vào. Phạm Công Trứ hỏi: "Anh xưng là danh sĩ Kinh Bắc vậy thử làm bài phú mới ra ở trường Giám hôm nay xem thế nào?". 

Ông sai cởi trói và đưa đầu bài, giấy bút cho Đăng Đạo. Đăng Đạo đọc đề dưới trăng, lập tức mài mực cầm bút viết một lèo. Phạm Công Trứ mở bài soi đọc thì thấy quả là văn tài, bèn nói chuyện với viên quan Đề lĩnh rằng: "Nếu ngài có ý kén rẻ hiền thì có lẽ khó ai hơn chàng trai này được. Văn này nếu không đỗ Trạng Nguyên thì cũng Bảng Nhãn chứ chẳng thường". 

Đề lĩnh nghe lời, đổi giận làm mừng, gọi Đăng Đạo tới bảo: "Ta bằng lòng nhận anh làm rể nhưng nhà ta hiếm hoi chỉ có một đứa con gái ấy thôi. Anh bây giờ đang tay trắng mà con ta đang chịu tang, ta cho anh vào ở trong dinh học hành nhưng phải đại đăng khoa (thi đỗ) rồi mới có thể tiểu đăng khoa (lấy vợ) được". 

Đăng Đạo hớn hở vui mừng về chùa Báo Thiên đem hành lý sách vở vào trong dinh Đề lĩnh ăn học. Một năm sau, Đăng Đạo thi hương đỗ đầu. Đến năm Chính Hòa thứ tư (1683) thi Đình ông đỗ Trạng nguyên, viên quan Đề lĩnh đúng như lời hứa cho phép ông sánh duyên với tiểu thư. 

Đăng Đạo cùng một lúc được thỏa cả hai điều mong ước lớn, thật là bõ công đèn sách bấy lâu.

Đọc thêm