Ngày 11/3/1945, cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ đã giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn huyện lỵ Ba Tơ (Quảng Ngãi) và mở đầu cho phong trào cách mạng lan rộng, tiến tới giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Viết nên trang sử hào hùng
Ba Tơ là huyện miền núi phía tây nam tỉnh Quảng Ngãi, có địa thế núi non hiểm trở với 80% là đồng bào Hrê. Cuối năm 1940, đầu năm 1941, thực dân Pháp xây dựng “Căng an trí” tại Ba Tơ, đưa các chiến sĩ hoạt động cách mạng đã mãn hạn tù về đây quản lý, khống chế, triệt tiêu mọi hoạt động cách mạng. Hầu hết các chiến sĩ, đảng viên kiên trung của Quảng Ngãi đều lần lượt bị đưa lên, giam lỏng tại đây.
Theo chân các chú, các bác như ông Võ Kim Cương (con trai của Thiếu tướng Võ Bẩm, nguyên là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Quân đội thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam 1971 - 1978) lặn lội từ TP HCM về Quảng Ngãi, đi qua những dấu tích xưa nằm ở phía tây Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ (thị trấn Ba Tơ) hay địa giới của đồn Ba Tơ là khu vực trung tâm của “Căng an trí” một thời… để thăm lại và thấy được, dù bị giam cầm khắc nghiệt, những chiến sĩ cách mạng vẫn kiên cường vượt qua mọi thử thách, giữ vững niềm tin, hun đúc tinh thần đấu tranh. Để rồi, từ nơi tưởng chừng là lao tù, họ đã biến nó thành trường học cách mạng, viết nên trang sử hào hùng trên vùng đất Ba Tơ.
Thiếu tá Trần Thị Hạt Huyền trích trong cuốn hồi ký “Bình minh Ba Tơ” đã kể lại, năm 1942, Chi bộ Đảng tại “Căng an trí” Ba Tơ được thành lập, do đồng chí Nguyễn Đôn làm Bí thư, lấy tên là Ủy ban vận động cách mạng để trực tiếp lãnh đạo; tạo tiền đề quan trọng cho những bước chuyển mình lớn lao trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đến tháng 4/1942, từ nhà đày Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), đồng chí Huỳnh Tấu - nguyên Ủy viên Thường vụ Ban Cán sự Nam Trung Kỳ bị địch đưa về đây. Ngay lập tức, ông bắt liên lạc với đồng chí Nguyễn Đôn, thúc đẩy Chi bộ Đảng phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn tỉnh dưới danh nghĩa Ủy ban vận động cứu quốc Quảng Ngãi.
Tháng 5/1943, từ nhà đày Buôn Ma Thuột, đồng chí Phạm Kiệt cũng bị đưa về “Căng an trí” Ba Tơ để quản thúc. Năm 1944, lần lượt các đồng chí Trương Quang Giao, Trần Quý Hai, Trần Lương cũng bị chuyển đến từ những nhà tù trong nước. Trước yêu cầu của phong trào cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo sâu sát hơn của tổ chức đảng, cuối tháng 12/1944, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi được thành lập. Đồng chí Trương Quang Giao được cử làm Bí thư, từng bước đưa phong trào cách mạng trong tỉnh ngày một lên cao. Trong đó, phong trào cách mạng tại “Căng an trí” Ba Tơ ngày càng lớn mạnh khi hội tụ được nhiều chiến sĩ cộng sản kiên trung. Họ mang theo lòng yêu nước sắt son, bản lĩnh, kinh nghiệm và có chiến lược đấu tranh, biến những ngày tháng trong vòng vây kìm kẹp của địch thành thời gian để làm một cuộc vùng dậy lịch sử…
Đêm 11/3/1945, Ba Tơ rực sáng trong niềm hân hoan. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay kiêu hãnh, báo tin vui về một trang sử hào hùng vừa được viết nên. Chính quyền cách mạng đầu tiên trong tỉnh ra đời, chấm dứt những đêm trường nô lệ. Sau đó, đoàn quân khởi nghĩa gồm 17 chiến sĩ được sự hỗ trợ của hàng vạn quần chúng tiến về đồn Ba Tơ. Quân khởi nghĩa nhanh chóng chiếm đồn, giải phóng châu lỵ Ba Tơ. Sáng hôm sau, tại sân vận động trước đồn Ba Tơ, một cuộc mít tinh lớn diễn ra trong không khí trang nghiêm, phấn khởi. Hàng nghìn người dân phấn khởi, chứng kiến khoảnh khắc lịch sử khi Đội Du kích Ba Tơ chính thức ra đời.
Sau đó, tại bãi Hang Én, 23 thành viên, tham gia thành lập Đội Du kích Ba Tơ với khẩu hiệu “Hy sinh vì Tổ quốc” rồi tiến về lập căn cứ trên núi Cao Muôn. Tuy thiếu thốn, gian khổ, nhưng đội quân du kích vẫn tích cực tập luyện đội hình, đội ngũ, đánh giáp lá cà để chuẩn bị tiến về đồng bằng cướp chính quyền. Từ núi rừng Ba Tơ, Đội Du kích Ba Tơ xuôi về đồng bằng thành lập Đại đội Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám tham gia tổng khởi nghĩa cướp chính quyền vào tháng 8/1945 ở Quảng Ngãi, trở thành lực lượng nòng cốt trong kháng chiến chống Pháp ở khu vực Nam Trung Bộ.
![]() |
Học sinh ôn lại quá khứ hào hùng của cha ông. |
Ngọn lửa kiên trung không bao giờ tắt
Những ngày tháng 3 lịch sử, vùng An toàn khu Ba Tơ hôm nay đã khoác lên mình một diện mạo mới, nhưng trên từng con đường, từng triền núi, âm hưởng hào hùng của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ vẫn luôn vang vọng. Các Di tích Quốc gia đặc biệt hay cứ điểm về cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ, những dấu ấn lịch sử vẫn hiên ngang giữa đất trời, khơi gợi trong lòng mỗi người niềm tự hào sâu sắc.
Núi Cao Muôn ở xã Ba Vinh (Ba Tơ) là nơi Đội Du kích Ba Tơ huyền thoại hô vang lời thề: “Hy sinh vì Tổ quốc”, vẫn sừng sững giữa đại ngàn. Ngọn núi kiên trung như chính những người con mà vùng đất này đã sinh ra. Rừng xưa vẫn một màu xanh biếc, che chở cho đồng bào nơi đây. Dưới chân núi Cao Muôn bây giờ, nhiều ngôi nhà ngói đỏ mọc lên, đường bê tông uốn lượn tô vẽ cho cuộc sống nhiều đổi thay của người dân. Dòng sông Liên lững lờ chảy dưới chân núi Cao Muôn, tựa như dòng chảy lịch sử không ngừng tuôn trào.
Vẫn còn đây di tích Bến Buôn bên dòng sông Liên, một thời gian dài là nơi tập kết lương thực, vũ khí từ đồng bằng ngược sông về Ba Tơ, phục vụ cuộc đấu tranh du kích. Căn nhà của đồng chí Trần Quý Hai, nơi Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi họp bàn, đưa ra quyết định quan trọng để khởi nghĩa giành chính quyền, nay cũng đã được tôn tạo, trở thành một phần quan trọng trong hành trình tìm về cội nguồn cách mạng...
Cùng với những di tích lịch sử, mỗi dịp tháng Ba về, Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ lại đón hàng nghìn lượt khách đến tham quan, tìm hiểu. Cảnh cũ còn đó, nhưng người xưa đã khuất. Công lao và sự nghiệp cách mạng của những người du kích trung kiên đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc, đi vào những câu chuyện kể của người dân trên quê hương Ba Tơ anh hùng.