Vì sao Tôn giả Ma Noa La được chọn là người nối nghiệp "Bí mật Thiền tông"?

(PLVN) - Tổ Ma Noa La, sinh sau Đức Phật nhập Niết bàn 803 năm, ở nước Na Đề, Ngài là người con thứ ba của vua Ma Thường Tự Tại, mẹ là hoàng hậu Phiệt Nan Dà, dòng Sát Đế Lợi. Khi sanh ra có nhiều điềm lạ, nên vua không dám lấy việc thế tục ràng buộc. Khi gặp Tổ Bà Tu Bàn Đầu, Ngài được 30 tuổi, vua cha cho phép xuất gia theo Tổ.
Tôn giả Ma Noa La.
Tôn giả Ma Noa La.

Dòng dõi đế vương, sinh ra đã là "con nhà Phật" 

Tôn giả Ma Noa La dưỡng như sinh ra đã là con nhà Phật nên không giống người thường. Khi mẹ sanh Ngài ra không thích chơi đùa, mà chỉ thích ở yên một mình, thường hay nói với cha và mẹ: Con thấy những người tu hành con rất thích. Vì Ngài thường hay nói vậy, nên cha mẹ Ngài không dám bàn đến chuyện cưới vợ cho Ngài. 

Đến 30 tuổi, một hôm Ngài đến chùa Phục Pháp nghe Tổ Bà Tu Bàn Đầu nói chuyện Phật lý, Ngài có hỏi: Kính thưa Thầy, Tu theo đạo Phật để được gì? Tổ Bà Tu Bàn Đầu trả lời: Ta dạy tu theo đạo Phật là để được Giải thoát. Ngài hỏi tiếp: Như vậy con tu có được Giải thoát không? Tổ trả lời: Bất cứ ai muốn Giải thoát, phải hành đúng như lời dạy của Như Lai thì mới được toại nguyện. 

Ngài liền xin với Tổ cho Ngài được tu Giải thoát. Tổ bảo: Con muốn theo ta tu Giải thoát thì hãy về xin với cha mẹ, khi nào cha mẹ con cho phép thì ta mới nhận. Ngài liền từ giã Tổ Bà Tu Bàn Đầu về xin với vua cha và mẹ xin cho Ngài được xuất gia, cha mẹ Ngài đồng ý. 

Ngài được Tổ Bà Tu Bàn Đầu chỉ dạy pháp môn tu Thiền tông được 9 năm, một hôm Tổ hỏi Ngài: Từ khi con theo ta tu đạo Giải thoát, nay đã được 9 năm, vậy con có hiểu thế nào là Giải thoát không? Ngài liền trình với Tổ bài kệ 28 câu như sau: Lúc nhỏ con có đến chùa/ Hỏi sư Phật Thế tu gì khỏi luân; 

 

Đại sư Phật Thế nhìn trừng/ Ta còn chưa biết, dạy gì cho ông. Từ đó con nguyện cầu mong/ Làm sao gặp được, Thiền tông Phật truyền; Nghe Thầy giảng dạy rất thiêng/ Con ra hoàng thành, tìm riêng hỏi Thầy. Thầy gọi con hãy lại đây/ Muốn tu giải thoát thì Thầy dạy cho; Khi tu không nhớ không lo/ Không tìm không kiếm đừng lo thứ gì. 

Khi tâm thanh tịnh một khi/ Một mực thanh tịnh vậy thì mà thôi; Con không nghĩ chuyện xa xôi/ Tự nhiên mất hẳn cái ‘’ Tôi ‘’ phàm trần. Tự nhiên con được rơi lần/ Vào nơi trống rỗng, thấy vòng mênh mông; Thấy được tất cả đều không/ Bỗng trong thanh tịnh, hiện phồng diệu hay.

 Con không dám trình với Thầy/ Cái thấy như vậy, xin Thầy dạy con; Hôm nay Thầy hỏi thì con/ Mới trình chỗ ấy, thấy con thế nào? Ngày nào con cũng được vào/ Chỗ thấy thanh tịnh, không sao nói lời; Chỗ đó là chỗ nghỉ ngơi/ Có phải như vậy, xin Thầy dạy con. 

Tổ Bà Tu Bà Đầu nói với Ngài: Con đã được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” của con đó. Người tu Thiền tông mà Như Lai dạy nơi thế giới này. Theo hệ thống truyền Thiền tông, người nào được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”, người đó được truyền Thiền tông để làm Tổ sư kế tiếp. Phúc con thật lớn nên được rơi vào. Trong Huyền ký của Đức Phật có ghi, con là người tiếp nối Tổ vị Thiền tông đời thứ Hai mươi hai. Nay ta cũng đã già, vậy 5 ngày nữa, con lo chưng dọn trên chánh điện Thiền tông để ta truyền “Bí mật Thiền tông” lại cho con. Đúng 5 ngày sau, nơi chánh điện Thiền tông chùa Thiền tông Diệu Pháp, buổi lễ truyền “Bí mật Thiền tông” được hành lễ. 

Du hóa truyền pháp bảo

Sau Ngài được Tổ truyền tâm pháp, Ngài sang Tây Ân giáo hóa. Vua nước này họ Cù Đàm tên Đắc Độ hằng sùng Phật pháp tinh tấn tu hành. Bảy năm  hành đạo  tại  Long cung. Một hôm, bỗng hiện một  bảo tháp  xanh huyền cao một thước tư, ngay chỗ vua  tu hành. Vua đích thân lại bưng lên để thờ, nhưng bưng không nổi, lính  hộ vệ  hợp lực nhấc lên cũng không lay chuyển. Sau cùng vua phải mở đại hội triệu tập tất cả lực sĩ, tăng sĩ, phạm chí, chú thuật…để hỏi nguyên nhơn  bảo tháp  xuất hiện  và dời lên thờ. 

Trong cuộc hội này, Ngài cũng đến dự. Trước tiên những lực sĩ ra sức nhấc tháp lên không lay động. Kế các nhà chú thuật dùng thần chú cũng bất lực. Sau cùng Ngài Ma Noa La bước ra giải thích: Tháp này do vua A Dục tạo ra để thờ xá lợi của Phật. Bốn mặt đều có chạm hình tiền thân Phật Thích Ca khi còn làm hạnh Bồ Tát. Ngày nay do đại vương có duyên phước lớn nên tháp này mới hiện. Nói xong, Ngài lại nhấc bảo tháp để trên  bàn thờ. 

Vua và toàn chúng  hết lòng kính phục. Vua thưa: Xin Tôn giả dạy cho  chúng tôi  những Phật pháp gì cần học? Ngài bảo: Muốn học Phật pháp  phải bỏ ba vật và đủ bảy việc. Vua thưa: Ba vật gì phải bỏ và đủ bảy việc gì? Ngài đáp: Tham, sân, si là ba vật phải bỏ. Đủ bảy việc là: đại từ, hoan hỷ, vô ngã, dũng mãnh, nhiêu ích, hàng ma, vô chứng. 

Vua Đắc Độ nghe xong  cảm ngộ, rất tiếc mình được hiểu quá muộn. Tự than răng: Bậc chí thành khó gặp, sự vui  trong đời  có gì  lâu dài! Vua cho đòi  thái tử  đến giao hết việc nước, xin theo Ngài  xuất gia  học đạo. 

Ngài  triệu tập  các vị  thánh chúng đến hoàng cung làm lễ xuất gia  và  truyền giới  cho vua.  Xuất gia  tu không bao lâu, vua Đắc Độ chứng được quả thánh. Ngài dạy Đắc Độ ở lại trong nước  giáo hóa, còn Ngài sang nước Nguyệt Chi tìm người kế truyền. Ngài Ma Noa La và  tăng chúng  đến nước Nguyệt Chi.

 Vua nước nầy là Bảo Ấn và Tỳ kheo Hạc Lặc Na đồng đón tiếp, thỉnh về nội cung. Hạc Lặc Na đem việc Long Tử hỏi trước: Thưa Tôn giả! tôi có một đứa đệ tử tên Long Tử tuổi tuy còn nhỏ mà thông minh tuyệt vời. Tôi thường  nhập định  tìm nguyên nhơn đời trước mà không thấy manh mối, hôm nay gặp đây xin Tôn giả chỉ dạy cho?

 Ngài hỏi: Ông nhập định quán thấy được mấy kiếp? Hạc Lặc Na thưa: Tôi chỉ thấy được  ba đời. Ngài bảo: Đệ tử của ông trong kiếp thứ năm đã sanh trong nhà Bà La Môn giàu có tại nước Diệu Hỷ. Khi ấy, trong nước có ngôi chùa mới khánh thành cái  đại hồng chung. Con ông Bà La Môn này dùng  gỗ chiên đàn  tiện cái chày dộng chuông cúng chùa. Nhờ chày này giúp cho người được nghe chuông  thức tỉnh. Bởi  quả báo  ấy, nên nay nó sanh ra được  thông minh. 

Hạc Lặc Na lại hỏi: Riêng tôi không biết duyên gì mà cảm được bầy hạc thường theo, xin Tôn giả chỉ dạy? Ngài bảo: Xưa ông trong kiếp thứ tư làm vị Tỳ kheo  đạo đức được đầy đủ, có đến 500 đệ tử, mỗi khi Long cung thỉnh ông cúng dường, ông xét trong hàng  đệ tử  không có người đủ  phước đức  thọ  Long cung  cúng nên ông chỉ đi một mình. 

Nhóm  đệ tử  bất mãn  nói: Thầy thường thuyết pháp nói: đối sự ăn uống  bình đẳng, đối với pháp cũng bình đẳng, mà nay thầy đi thọ trai một mình! Sau Long cung thỉnh, ông đều cho chúng đi theo. Bởi họ chưa đủ đức mà nặng về sự ăn uống, nên sau khi tịch diệt, chúng ấy lần lượt  chết sanh trong loài có cánh. Đã  trải qua  năm kiếp, nay họ lại làm thân hạc. 

Do nhân duyên thầy trò kiếp trước nên nay chúng cảm mến ông. Hạc Lặc Na  cảm động, lại hỏi: Nay phải tu pháp gì để giúp chúng trở lại làm người? Ngài bảo: Ta có  pháp bảo  vô thượng, là kho tàng Như Lai, Thế Tôn xưa trao cho Tổ Ca Diếp  lần lượt  đến ta, nay ta trao cho ông, ông nên  truyền bá chớ nên để dứt mất. 

Nghe ta nói kệ: Tâm theo muôn cảnh chuyển/ Chỗ chuyển thật kín sâu/ Theo dòng nhận được tánh/ Không mừng cũng không lo. Hạc Lặc Na  vui vẻ  kính vâng  phụng hành. Ngài  truyền pháp  xong, ngay chỗ ngồi  lặng lẽ  thị tịch. Đồ chúng hỏa táng và lượm xá lợi của Ngài rồi xây tháp thờ phụng. 

Đọc thêm