Được ví như “Thành nhà Hồ thứ 2”
Nằm sâu trong con ngõ 252 đường Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội, khu Lăng đá Hoàng Cao Khải được xây dựng từ năm 1893. Khi đó Hoàng Cao Khải đã cho thiết lập một vùng đất rộng lớn nhằm làm nơi chôn cất và cúng tế cho gia tộc mình.
Toàn bộ quần thể ấy rộng đến 17ha, bao gồm 14 công trình kiến trúc lớn, nhỏ về lăng mộ và đình chùa, như Lăng Hoàng Cao Khải, Lăng con Hoàng Trọng Phu, đồi Nghinh Phong, hồ Tẩm Nguyệt, khu đền thờ họ Hoàng với bảy gian theo phong cách kiến trúc dân gian… nằm rải rác ở khu vực phía Tây của gò Đống Đa.
Các nhà sử học Việt Nam đã từng gọi lăng là thành nhà Hồ thứ hai, còn giới nghiên cứu lịch sử người Pháp thì đánh giá đây là một trong những đỉnh cao của kiến trúc đá phương Đông.
Lăng Hoàng Cao Khải được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh”, dài 8 mét, cao 6 mét, trần cách sàn hơn 4 mét. Ở giữa có một cái bàn đá màu trắng rộng, mộ của Hoàng Cao Khải ở bên trái, mộ bà vợ ở bên phải,…
Toàn bộ công trình đều bằng đá cẩm thạch trắng cực đẹp, chạm trổ tinh vi, có khắc những dòng chữ sắc sảo. Đá xây dựng lăng được chở về từ phủ Quốc Oai (Hà Tây cũ) và qua bàn tay chế tác đá của các hiệp thợ nổi tiếng quanh vùng núi An Hoạch (huyện Đông Sơn, Thanh Hóa).
Hiện đôi rồng đá ngự trước cửa lăng mặc dù đã bị thời gian xô lệch, không còn trùng khớp với những bậc tam cấp, đầu rồng cũng có chỗ không còn nguyên vẹn, nhưng nó vẫn giữ được phong thái uy nghi mà người đời vẫn thường gọi với một cái tên thật mỹ miều: “vân mây hóa rồng” . Đây có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật đầy tinh xảo, mà tìm trên khắp mảnh đất kinh kì này chỉ có tại Lăng mộ Hoàng Cao Khải.
Hoa văn điều khắc trên đá thời Nguyễn ở Lăng Hoàng Cao Khải |
Ngay cả đối với hàng tượng đá đứng chầu ngoài sân, theo tài liệu ghi lại thì trước đây, phía trước Lăng mộ Hoàng Cao Khải hồi đầu thế kỷ XX có hai dãy tượng gồm 8 chiến binh cao 1,3m cầm gươm đứng gác. Nhưng nay chỉ còn ba tượng phía tay trái của lăng với hình hài đã bị vùi chôn gần hết chân xuống nền sân, mặt sứt mẻ. Tuy nhiên, người ta vẫn nhận ra những nét chạm trổ cơ bản rất đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc đá vào cuối thế kỷ XIX.
Xét về kiến trúc tổng thể thì Lăng Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu có những nét tương đồng, nhưng về quy mô thì khác nhau. Lăng Hoàng Trọng Phu xây sau, tuy là con như lăng mộ đồ sộ hơn cha. Toàn bộ mặt cắt ngang của lăng dài 15m, được chia làm nhiều khu nhỏ, trần cũng cao hơn 4m với những họa tiết và hán tự đặc trưng. Bên ngoài lăng chúng ta có thể nhìn thấy khu đặt mộ Hoàng Trọng Phu có một gian nhà đá với mái lục giác hoa văn rất tinh xảo cao trên 7m tính từ nền.
Xét về quy chuẩn, nếu chỉ tính các lăng mộ của quan lại ở Việt Nam thì Lăng Hoàng Cao Khải đứng số 1.
Số phận bi thảm
Những tài liệu lịch sử chính thống đều ghi lại Hoàng Cao Khải (1850–1933), nguyên danh là Hoàng Văn Khải, quê làng Đông Thái (thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 21 (1868). Ông là nhà văn, nhà sử học và là đại thần dưới triều Vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, Hoàng Cao Khải cùng với Nguyễn Thân là 2 người được Pháp rất tin dùng.
Chính vì thế người đời coi ông là “tội nhân” lịch sử. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, có khá nhiều ý kiến “đánh giá lại” công, tội của Hoàng Cao Khải. Đáng chú ý trong số đó có nhà sử học, PGS.TS Chương Thâu nói rằng: “Những “bia miệng” giáng xuống Hoàng Cao Khải hơi nặng nề so với “tội trạng” thực của ông”… hay: “Tôi không dùng chữ “yêu nước”, nhưng Hoàng Cao Khải là người có tinh thần dân tộc”.
Tượng lính canh bị mất gần nửa người sau những lần tâng nền |
Ngày 25/11/1945, trong Sắc lệnh bảo vệ di tích, cổ vật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giữ nguyên hiện trạng khu ấp Thái Hà, trong đó có khu lăng gia đình Hoàng Cao Khải. Trong quyết định xếp hạng di tích ngày 28/4/1962 của Bộ VH-TT (nay là Bộ VH-TT&DL) đã đánh giá: “Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương”.
Con người Hoàng Cao Khải với những việc làm trong quá khứ không phù hợp với dân tộc, chịu sự khinh rẻ của người đời, nhưng nghệ thuật được thể hiện ở khu quần thể lăng đá là nghệ thuật của dân tộc chứ không phải của cá nhân Hoàng Cao Khải. Chúng ta phải phân định rạch ròi như vậy. Nhưng đó chỉ là ý kiến của những ai yêu nghệ thuật, yêu kiến trúc và có cái nhìn khách quan.
Thực trạng của Di tích Quốc gia Lăng Hoàng Cao Khải - Hoàng Trọng Phu sau khi được công nhận năm 1962 đến nay rất bi thảm. Hiện nay, cả một khu chợ cóc nhảy dù vào khu vực lăng, lều bạt, bãi gửi xe… đã che lấp hoàn toàn những tượng đá đẹp đẽ, uy nghi xưa. Hàng tượng đá, voi đá, đôi rồng đá phía trước khi xưa rất uy nghi, nhưng nay chỉ còn đúng 3 tượng đá lính canh. Nhưng các bức tượng này cũng đã bị sứt đầu, mẻ tai, chân bị chôn gần hết vì nền sân nhiều lần được tâng cao. Khu vực dẫn xuống hồ Tẩm Nguyệt ngày trước vốn rất đẹp và hữu tình thì nay cũng đã bị khóa. Lăng Hoàng Trong Phụ cũng có số phận tương tự do bị các hộ dân lấn chiếm.
Nói về cách ứng xử với di sản, di tích của người dân hiện nay, GS sử học Trần Lâm Biền cho biết: “ Năm 1962, quần thể Lăng đá Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà cũ đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia. Nhưng do hậu quả lịch sử để lại, do tư tưởng hận thù giai cấp nên nhiều người dân đã có một số hành động xâm phạm, phá hoại khu lăng đá. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử, cũng như cuộc đại cách mạng Văn hóa bên Trung Quốc đã từng phá hoại đi rất nhiều công trình văn hóa, nghệ thuật quý giá của đất nước Trung Hoa xưa”.
Giáo sư Biền khẳng định không có chuyện một quần thể lăng đá đã được công nhận là di tích Quốc gia bị xóa sổ, gạch tên dù hiện trạng của nó bây giờ rất bi thảm. Nhưng việc bảo vệ được quần thể lăng đá này đối với ngành Văn hóa hiện nay là rất khó khăn. Chỉ khi nào kinh tế phát triển mạnh hơn nữa, ngành Văn hóa có quyền năng, giải quyết mạnh hơn với di tích, di sản thì mới có những hành động để đẩy những người đang xâm phạm lăng ra khỏi khu vực này. Tiếc lắm thay!