Theo thống kê, tính đến hết năm 2015, Hà Nội có 133 cơ sở cấp nước tập trung hoạt động, cấp nước cho 51% hộ gia đình sử dụng, 49% hộ gia đình còn lại sử dụng nguồn nước tự khai thác (nước mưa, giếng đào, giếng khoan).
Nói như vậy để thấy rằng, hiện mạng lưới cung cấp nước sạch hiện vẫn chưa đồng bộ. Hệ lụy nhãn tiền là đã có không ít địa phương, qua khảo sát của các cơ quan chức năng, hiện nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Cụ thể, theo khảo sát gần đây, hàng nghìn con người thuộc hai thôn Linh Quy Bắc và Linh Quy Đông (xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm) suốt nhiều năm phải sử dụng nguồn nước giếng khoan nồng nặc mùi hôi tanh, ngả vàng và có váng mỡ. Dù giếng tại đây khoan sâu khoảng 40 đến 50 mét nhưng nguồn nước này cũng đang dần bị ô nhiễm rất nặng.
Tương tự như vậy, ở Lũng Vị, xã Đông Phương Yên (huyện Chương Mỹ), năm 2015 Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cũng đã công bố nơi đây lọt vào danh sách "top" 10 làng ung thư có nguồn nước ô nhiễm nặng nhất.
Hệ lụy do nguồn nước ô nhiễm gây ra là từ năm 1990 đến nay, toàn thôn Lũng Vị có 45 trường hợp chết vì bệnh ung thư, chủ yếu là ung thư gan và ung thư phổi, rơi vào tuổi ngoài 40, thậm chí mới ngoài 30 tuổi. Nếu dựa vào thống kê số người chết vì ung thư chiếm 0,35% trên tổng số dân của làng trong những năm qua, con số này cao gấp 4 lần so với tỉ lệ trung bình của Việt Nam.
Theo một báo cáo khác của Tổng cục Môi trường, riêng tại Hà Nội, qua khảo sát các số liệu đều cho thấy mức ô nhiễm nước tại làng nghề luôn ở mức đáng báo động.
Chẳng hạn, ở làng nghề cơ kim khí Thanh Thùy (huyện Thạch Thất), qua kiểm tra cho thấy nguồn nước thải của cơ sở sản xuất có hàm lượng Cr6+ vượt 7,2 lần, Zn vượt 36,0 lần, Fe vượt 22,4 lần QCVN; tại làng nghề giết mổ Bái Đô, xã Tri Thủy (huyện Phú Xuyên), nước thải từ cơ sở giết mổ có hàm lượng BOD5 vượt 3,8 – 7,6 lần, COD vượt 2,2 – 4,0 lần, SS vượt 2,3 – 3,9 lần.
Đó là các địa phương mạng lưới nước sạch chưa được “phủ về”, riêng các khu vực hiện đã và đang sử dụng nước sạch do các đơn vị kinh doanh nước sạch trên địa bàn thủ đô cung cấp, ngoài chuyện phải đối mặt với tình trạng thường xuyên mất nước, có nhiều thời điểm hàng nghìn con người vẫn phải sử dụng nước bẩn.
Chẳng hạn, thời điểm năm 2011, Trung tâm Quan trắc và Dự báo tài nguyên nước, Bộ TN&MT đã công bố kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất ở khu vực Đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ và Tây Nguyên. Ở riêng khu vực Đồng bằng Bắc bộ, ở xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, hàm lượng amoni lên đến 23,30mg/l, gấp 233 lần tiêu chuẩn cho phép.
Ngoài ra, còn có 17/32 mẫu có hàm lượng mangan vượt quá hàm lượng tiêu chuẩn, 4/32 mẫu có hàm lượng asen vượt tiêu chuẩn…
Hay như tháng 7/2014, người dân Mỹ Đình II, Khu đô thị Mỹ Đình, Nam Từ Liêm không khỏi lo lắng khi phát hiện nguồn nước giếng khoan được cung cấp bởi Cty TNHH Một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị HUDS, bị nhiễm asen gấp hai lần tiêu chuẩn cho phép suốt một thời gian dài...
Từ những ví dụ trên cho thấy một thực trạng, hiện việc thực hiện nội kiểm vệ sinh, chất lượng nước tại một số cơ sở cấp nước chưa được thực hiện thường xuyên theo qui định.
Bên cạnh đó, Ban Quản lý các tòa nhà chung cư, nhà tập thể và các hộ gia đình cũng chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc nội kiểm chất lượng nước.
Nhiều địa phương ngoại thành Hà Nội hiện vẫn đang sử dụng nguồn nước không đảm bảo |
Đó là riêng về công tác nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng, hoạt động tăng cường kiểm tra, giám sát hiện cũng được nhìn nhận một cách toàn diện hơn.
Chẳng hạn, theo kế hoạch dự kiến, thời gian tới ngành y tế sẽ thực hiện khoảng 200 lượt kiểm tra vệ sinh, chất lượng nước tại các cơ sở cấp nước, hơn 140.000 lượt ( 20 hộ/xã phường/tháng) kiểm tra vệ sinh nguồn nước tại nhà chung cư, tập thể, hộ gia đình và hơn 6 trăm lượt kiểm tra vệ sinh, chất lượng nước tại các bể bơi, khu vui chơi dưới nước.