Những câu chuyện bí ẩn về Vua Minh Mạng
Lăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê (xã Thủy Bằng, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế) được xây dựng trên diện tích 28ha bao gồm nhiều kiến trúc khác nhau. Nhưng khi đến đây hỏi về nơi chôn cất thi hài Vua Minh Mạng thì ai nấy, kể cả những người dân trong vùng lẫn những người phụ trách coi sóc lăng tẩm, đều không biết.
Trong các tài liệu ghi lại về lịch sử của triều Nguyễn mà chúng tôi tìm thấy tại các hiệu sách và các lăng tẩm khác ở Huế đều không nhắc đến nơi chôn cất Vua Minh Mạng cũng như kho báu của ông.
Thời Vua Minh Mạng (1820 - 1840) là thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều nhà Nguyễn. Về sau, khi ông qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo ông về với lòng đất. Không còn một ai biết được chút manh mối nào về những căn hầm bí mật này.
Các vị vua của triều Nguyễn sau này một phần vì không muốn làm kinh động tới tiên đế, một phần vì thời thế thay đổi nên cũng không còn chuyện chôn cất vàng bạc và đả động gì tới những tài sản mà Vua Minh Mạng trước đó đã giấu đi.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ cho biết, kho tàng của triều Nguyễn dưới thời Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội Vụ Phủ.
Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Các kho được triều đình cho kiểm kê đầy đủ, nghiêm ngặt và thanh tra chặt chẽ.
Riêng hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng bạc vào năm 1836.
Vào cuối năm 1838, Vua Minh Mạng cho rằng các nhân viên làm việc ở cơ quan ấy “đi lại ồn ào” gần nơi cung cấm nên nhà vua cho dời Nội Vụ Phủ ra khỏi Tử Cấm Thành và thiết lập tại khu vực bên trái Hoàng Thành (tức là khuôn viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật ngày nay).
Nhà vua giao cho Thống chế Mai Công Ngôn điều khiển 2.000 biền binh làm công việc dời kho này. Cẩn thận hơn, Vua Minh Mạng đã chỉ định các đại thần cao cấp nhất trong triều đình là Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau hàng ngày đến giám sát công việc dời kho để của kho khỏi bị bỏ sót và thất thoát.
|
Vua Minh Mạng |
Hầm vàng Vua Minh Mạng?
Theo đó, vào năm Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ đại thần Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái quan hội đồng (Quận vương Hồng Tố, Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thuật, Thượng thư Bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Hội biện Sô Lê, Đô Ty, quận công Ưng Huy, Tham biện Tôn Thất Hoài Điển) và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy một hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có 3 cụm chữ triện đóng riêng rời.
Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích. Về sau ông khâm sứ đại thần nói với vua số bạc ấy trừ thuế, phí tổn đài tải quy ra tiền tổng cộng 460.350 đồng, gửi Ngân hàng Thượng Hải.
Hầm bạc được Khâm sứ đại thần Boulloche tìm thấy không phải là hầm bạc duy nhất. 6 năm sau, năm Duy Tân thứ 9 (1915), một hầm bạc khác được phát hiện.
Trong quá trình đào đất sau cửa Tường Loan để sửa chữa ống nước trong khuôn viên Đại Nội, toán thợ chạm phải hầm bạc, một số phái viên của Bộ Công đã trình lên trên. Nhận được tin, Phủ Phụ chính cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem thấy dưới hầm gạch có hòm gỗ, hai đầu đều có đai sắt mục đứt lộ ra các thỏi bạc.
Khi đào lên kiểm biên có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ, dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”.
Hầm bạc thứ 2 được tìm thấy vào tháng 7 thì cuối tháng 8 (29/8), cũng tại khu vực chỗ cửa Tường Loan, khi thi công sửa chữa miệng ống nước, lúc đào gạch lát nền, những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn, trên ấy có đồng tiền đồng hạng lớn đã nghĩ ngay đó là hầm chôn bạc của vua tiền triều.
Việc phát hiện được báo lên trên, lần này đích thân Vua Duy Tân cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem việc “khai quật”. Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi...
Mãi đến gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, tưởng như sẽ không còn ai nhắc đến kho báu trong Hoàng cung nữa thì trong Đại Nội lại diễn ra thêm một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào ghi lại.
Sự kiện diễn ra vào mùa đông năm 1988. Nguyên do bắt nguồn từ một ông cụ ở TP.Hồ Chí Minh từng làm việc tại Huế, nghe người con trai của một vị quan xưa nói về kho vàng trong Đại Nội.
Trước khi tạ thế, vị quan đã có một thời coi sóc kho tàng ở Nội Vụ phủ trong Hoàng cung dặn lại người con trai của ông rằng ngày xưa có một kho vàng được chôn ở khoảng giữa bức tường phía Đông của Tử Cấm Thành, gần bờ hồ Ngự Hà.
Ông cụ ấy mách lại cho một nhà lãnh đạo tại TP.Hồ Chí Minh biết. Nhà lãnh đạo này báo cho Bộ Nội vụ hàng cấp cao hơn hay.
Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của Bộ này vào Bình Trị Thiên phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm Thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng.
Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết là mình đang đào gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó, hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945.
Tuy mất khá nhiều thời gian nhưng kết quả của cuộc tìm kiếm này không có thứ gì giá trị như những lần người Pháp tìm thấy trước đó. Và từ thời điểm đó đến bây giờ không còn có bất kỳ một cuộc khai quật nào liên quan kho báu trong lòng đất của Vua Minh Mạng nữa.
Có lẽ tất cả vẫn sẽ mãi mãi là một bí ẩn...