Đạm Phương nữ sử, vốn dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cha là Hoằng Hóa Quận vương Miên Triệu, hoàng tử thứ 66 của vua Minh Mạng. Tên thật của bà, là Công Nữ Đồng Canh (1881-1947). Khác với đa phần các bà công nữ ẩn mình nơi cung cấm, Đạm Phương nữ sử “xông pha” nơi “trường văn, trận bút”, để người đời mãi nhớ đến bà với biết bao dấu ấn.
Ảnh hưởng của gia đình hoàng gia
Vốn Hoằng Hóa Quận vương (1835-1905) được biết đến là người học rộng, có khiếu văn thơ, từng là thành viên của Mạc Vân thi xã do Miên Thẩm đứng đầu, lại từng đi sứ sang Pháp, rồi sau ở nhà viết sách “Ước đình thi sao”, “Ất Sửu như Tây nhật ký”, được Phạm Quỳnh trong tác phẩm “Mười ngày ở Huế” đánh giá là “những bài văn nghị luận, thiết thực, có ích”.
Trong khi ấy, mẹ Công Nữ Đồng Canh, vợ thứ hai của Miên Triệu là người hay chữ. Thấy con gái thông minh, ham học, bà để ý dạy chữ Hán cho con, rồi sau mời thầy đồ từ Nghệ An vào dạy.
Năm Giáp Ngọ (1894), Miên Triệu dời nhà ra phía nam núi Dẫn Khiêm, đặt tên là “Học bán tịnh xá”, ở gần Lạc Tịnh viên và phủ Vĩnh Trinh của công chúa Quy Đức. Công chúa Quy Đức mở lớp dạy cho các cung nữ, và Công Nữ Đồng Canh theo học ở đây, được công chúa Quy Đức quý mến vì có khiếu văn chương, ham hiểu biết.
Chính từ ảnh hưởng của những người thân thuộc, mà trong tác phẩm nghiên cứu “Đạm Phương nữ sử (1881-1947)” của Nguyễn Khoa Diệu Biên và Nguyễn Cửu Thọ đã khẳng định “Đồng Canh đã chịu ảnh hưởng của truyền thống tốt đẹp trong gia đình, đặc biệt sâu sắc là của thân sinh Miên Triệu và cô công chúa Quy Đức”. Bởi vậy mà Đồng Canh làu thông Hán học, thông thuộc sử Nam, sử Trung. Sau lại học thêm chữ quốc ngữ và tiếng Pháp.
Về hình dung, dung nhan của bậc kim chi, ngọc diệp này được miêu tả là “dáng người mảnh mai, khuôn mặt trái xoan, đôi mắt to và sáng, sống mũi cao, nước da trắng mịn”. Về phần tính cách, Công Nữ Đồng Canh là người đoan trang, nhân hậu, yêu thiên nhiên.
Dù được sống trong nhung lụa, nhưng trước cảnh khói lửa, Đồng Canh rất xót xa trước vận mệnh non sông, thương dân phải lầm than trong ách kìm kẹp của ngoại bang. Tâm hồn nhạy cảm ấy, chính là nơi để sau này sáng tác nên nhiều áng văn thơ mang hồn Đạm Phương vậy.
Tròn phận nâng khăn, sửa gối
Khi tuổi lên 16, Công Nữ Đồng Canh xuất giá tòng phu. Bây giờ, tuổi ấy lập gia đình, gặp ngay tiếng là tảo hôn, nhưng thuở đó, việc ấy là sự thường mà thôi. Người mà Đồng Canh nâng khăn sửa gối, ấy là nghè Sáu Nguyễn Khoa Tùng.
Ông Nguyễn Khoa Luận, thân sinh ra Khoa Tùng vốn đậu cử nhân, làm quan nhà Nguyễn, thuở nhỏ được tập ấm mà hưởng tước quan hàm Chánh cửu phẩm trong Hàn lâm viện nhưng vì có tư tưởng chống Pháp, mà từ quan về với điền viên.
Ông Miên Triệu dù tôn thất nhà Nguyễn, nhưng quý Nguyễn Khoa Luận ở cái tinh thần ấy, lại biết họ Nguyễn này là người tài hoa, có tư tưởng cao rộng, nên có nhiều cảm tình lắm. Khi Nguyễn Khoa Luận phu nhân sang nhà dạm hỏi Đồng Canh cho con trai thứ sáu Nguyễn Khoa Tùng, ông Miên Triệu mới ướm ý:
- Con gái tôi kém cỏi lắm, chẳng biết làm gì, cả ngày chỉ đọc sách ngâm thơ. Về làm dâu, sợ không giúp được việc cho nhà chồng.
Nói thế, nhưng thực ra ông biết con gái mình cũng bậc trâm anh chứ chẳng phải dạng vừa. Thế nên, khi nghe bà thông gia tương lai đáp lại “Dụng nhân như dụng mộc. Cây có thứ mọc hoang ngoài vườn, có thứ trồng trong chậu kiểng. Nhà tôi đã có người nuôi heo gà, chăm vườn tược. Cô dâu thích văn thơ, về tôi dành cho làm văn thơ”, thì ông lấy làm vui lòng lắm.
|
Vợ chồng Đạm Phương |
Về làm dâu họ Nguyễn Khoa khi tuổi đời còn trẻ, nhưng nếp ăn nếp ở, Đồng Canh làm đẹp lòng bố mẹ chồng. Còn với chồng, ông Nguyễn Khoa Tùng, thì Đồng Canh ăn ở đủ nghĩa. Ngoài việc chăm lo gia đình, lúc rảnh rỗi, Đồng Canh lại đọc sách, ngâm thơ. Hai vợ chồng cũng thường cùng nhau xướng họa, để rồi sau có cả tập thơ chung.
Do hoàn cảnh lịch sử, khi gia đình chồng gặp khó khăn, bổng lộc bớt đi, Đồng Canh lại “xắn tay áo”, mua thêm đất trồng dâu, nuôi tằm để kéo tơ, dệt vải, nhận hàng thêu thùa, từ đó mà có tiền chi dùng trong gia đình và nuôi con cái ăn học.
Ấn tượng về Đồng Canh dạo ấy, còn được ghi lại trong hồi tưởng của Trần Thị Như Mân qua bài “Với nữ sĩ Đạm Phương” đăng trên tạp chí sông Hương số 12, tháng 4/1985: “Sinh trưởng trong một hoàn cảnh như bà Đạm Phương, lại biết tự mình tham gia lao động thủ công, phải nói là một việc làm hiếm có. Vì trong xã hội bấy giờ, thiếu chi người gặp khó khăn thực sự, nhưng vẫn không chịu lao động, chỉ quen sống đài các bằng sự dựa dẫm bà con xung quanh”.
Điều đáng quý nữa mà ít người hay, ấy là khi chồng bà, ông nghè Sáu Khoa Tùng có vợ hai là bà Hồ Thị Lệ, thì bà Đồng Canh xem bà Lệ như em gái mình, không phân biệt phận cả, phận lẽ, đối xử rất ư thân tình, lại giúp bà Lệ học chữ quốc ngữ cho thông. Con cái hai bà ai sinh ra trước làm anh, làm chị, ai sinh ra sau làm em, không phân biệt con bà này, bà nọ. Tư tưởng ấy là sự cởi mở lớn trong buổi lề lối cổ truyền con sâu nặng.
Hồn thơ nữ sử
Trong “Đạm Phương nữ sử (1881-1947)” cho biết thời còn tóc xõa ngang vai, Công Nữ Đồng Canh đã sớm sáng tác và sau đó thu thập, sắp xếp những bài thơ chữ Hán của mình thành hai bộ là “Đông quán thi tập” và “Tú dư xích độc”. Ngoài ra, bà còn có tập thơ sáng tác chung với chồng, được biết đến với tên gọi “Hiệp bích thi cảo”. Bên cạnh đó bà còn có nhiều bài thơ quốc ngữ đăng trên báo chí với từ ngữ thuần Việt.
Về thơ của Đạm Phương nữ sử (chức vụ của bà nơi cung đình, chúng tôi xin giải thích sau), được khen là lời thơ trong sáng, giản dị mà thấm thía, hàm súc, thể thơ đa dạng, bên cạnh những thể tứ tuyệt, song thất bát cú, cổ phong truyền thống bà còn làm thể lục bát, song thất lục bát. Hồn thơ của bà đa sầu, đa cảm, nên dễ rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên. Tỉ như bài “Trùng du Trúc Lâm tự” đăng trên “Hữu Thanh tạp chí” ngày 1/1/1922 có câu:
“Sóng tùng nhấp nhố mây ngàn liệng,
Gió trúc vo ve nước suối chen”.
Hay bài “Thược dược vàng mới nở” đăng trên “Trung Bắc tân văn” tháng 2/1925 có đôi câu:
“Hoa nhuộm vàng non trăm vẻ khéo,
Lá đơm xanh nghít một màu in”.
Trong vốn thơ của bà, được khen ngợi nhiều có thơ vịnh sử, một đề tài không dễ vì phải có hiểu biết lịch sử sâu sắc. Thơ vịnh sử của bà, được nghiên cứu “Tìm hiểu thơ và từ của Đạm Phương nữ sử” trong hội thảo khoa học “Đạm Phương nữ sử-Chân dung nhà văn hóa đầu thế kỷ XX” năm 2011 khen là “đã thổi được hồn cốt của thời đại và cái nhìn mới đầy cảm thông của một phụ nữ đối với các nhân vật lịch sử”.
Thơ của Đạm Phương nữ sử, đề tài rất ư đa dạng phong phú, dẫu còn có những hạn chế về hình thức biểu đạt, nhưng nội dung thơ tiến bộ, cao thượng, dùng từ thuần Việt, trong sáng, được xem là “ở một khía cạnh nhất định, Đạm Phương nữ sử đã đóng góp cho quá trình hiện đại hóa thơ ca nói riêng và văn học Việt Nam nói chung”.
Có thời, thơ của bà đăng trên khắp các báo, tạp chí như: Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí, Trung Bắc tân văn... Bạn thơ toàn những danh nhân tên tuổi trong sử nước như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng… Mà đâu chỉ có thơ, nữ sử còn tham gia dịch thuật, viết sách, viết báo và đấu tranh cho nữ quyền. Điều này, chúng tôi xin nói rõ hơn ở kỳ sau cho bạn đọc được tỏ...