Đọc trong cổ sử, thấy có hiện tượng nhiều chiến thắng quan trọng diễn ra vào năm Tỵ. Như Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống nhà Tống và quân Tống xâm lược, theo cách đánh “đập nát đầu rắn”, giết được chủ tướng Hầu Nhân Bảo của giặc, ngày Kỷ Mùi tháng Ba năm Tân Tỵ (28/4/981) đuổi đại binh giặc khỏi đất nước.
Đó cũng là những trận đánh gay go trên phòng tuyến sông Cầu do nguyên soái Lý Thường Kiệt chỉ huy, đọc thư thần “Nam quốc sơn hà” làm khiếp vía địch quân, buộc quân Tống xâm lược lần thứ hai vào đầu tháng Hai năm Đinh Tỵ (đầu tháng 3/1077), phải rút chạy về nước.
Còn có những chiến thắng khác xảy ra vào năm Tỵ, nhưng có thể đã bị chép nhầm niên đại sang các năm khác, cần phải được xem xét lại.
Đó là trận quyết chiến chiến lược Đông Bộ Đầu đại thắng quân Mông Nguyên sang xâm lược lần thứ nhất. Một số biên niên sử bằng chữ quốc ngữ chép trận này diễn ra vào năm 1258, hoặc chép cụ thể cả ngày tháng năm (theo lịch dương) là 29/1/1258. Vì năm 1258 là năm Mậu Ngọ, nên một số người cho rằng trận Đông Bộ Đầu diễn ra vào năm Mậu Ngọ.
Nhưng thực tế, ngày 29/1/1258, tính theo Âm lịch là ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Tỵ. Cho nên niên đại của trận Đông Bộ Đầu cần phải được viết lại cho đúng là năm Tỵ.
Nhà sử học Lê Văn Lan |
Trong lịch sử, còn một số sự kiện quan trọng diễn ra cũng vào các năm Tỵ. Như việc lễ, gả và cưới chồng của các công chúa thời Lý - Trần.
Đây không chỉ là những chuyện vui vẻ hôn nhân, mà còn là cốt cách của một quyết sách chính trị đặc sắc cho sự nghiệp giữ gìn lãnh thổ, bảo toàn biên cương của các triều đại này. Vì ở đây, các công chúa “lá ngọc cành vàng” từ Kinh đô Thăng Long được đưa đi làm và thành vợ của các thủ lĩnh người dân tộc vùng biên viễn phía Bắc, hoặc quốc vương nước láng giềng phương Nam xa xôi. Thì không khác gì làm “phái viên” (đại sứ) của triều đình đi giữ “tay hòm chìa khóa” cho chính quyền Trung ương ở các địa phương ấy.
Các công chúa Bình Dương, vào năm Kỷ Tỵ 1029, được gả cho châu mục Thân Triệu Thái ở châu Lạng; Phụng Kiều mất vào năm Quý Tỵ 1113 ở châu Chân Đăng sau khi được gả cho châu mục châu này, là những “nhân vật của năm Tỵ” như thế.
Hình tượng Bà Triệu trong tranh dân gian Đông Hồ |
Còn có trường hợp công chúa Huyền Trân, được gả cho quốc vương Chế Mân, nước Chiêm Thành. Năm Ất Tỵ 1305, quốc vương Chiêm Thành phái sứ giả Chế Bồ Đài cùng hơn 100 người, đem rất nhiều lễ vật quý, đến Thăng Long cầu hôn.
* * *
Theo quan niệm xưa, người sinh năm Tỵ thường được đánh giá là có đầu óc tư duy nhanh nhạy, nhạy bén trong xử lý tình huống, có trực giác mạnh mẽ. Họ thường hành động lặng lẽ, không phô trương, nhưng lại rất thận trọng và tính toán kỹ lưỡng. Với bản tính thâm trầm khôn ngoan, người tuổi Tỵ có thể đạt được nhiều thành công, nếu biết tận dụng tốt năng lực của mình.
Một số quan niệm hiện đại cho rằng đấy chỉ là điều người xưa nhận xét căn cứ vào thuộc tính của loài rắn. Còn khảo sát cuộc đời của một số nhân vật nổi tiếng tuổi Rắn trong lịch sử, ta sẽ thấy những điều thực tế, uyển chuyển, sinh động, rộng rãi hơn thế nhiều.
Như trường hợp của nữ Anh hùng dân tộc Bà Triệu, là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa “long trời lở đất” bùng nổ vào năm 248 chống ách thống trị của nhà Ngô. Bà Triệu, người cầm tinh con Rắn (sinh vào năm Ất Tỵ 226) đã có câu nói được truyền tụng muôn đời: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta”.
Tranh Đông Hồ vẽ chiến thắng Bạch Đằng, năm 938 |
“Thi thánh” Cao Bá Quát, theo sách “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, cũng là cầm tinh con Rắn. Ông sinh vào năm Kỷ Tỵ (1809). Với hành động dùng muội đèn sửa bài thi cho thí sinh khoa thi Hương năm 1841 mà ông là giám khảo; với nhiệt tình tham gia làm quân sư cho cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và sau đó bị giặc sát hại vào năm 1855; với hàng trăm tác phẩm thi ca tài tình, đầy tính nhân văn khí phách của một bậc “thánh thơ”, ta lại thấy ở ông không nhiều tính thâm trầm, lặng lẽ; mà trái lại rất sôi động, quyết liệt đến mức sắc bén, ngang tàng.
Ta còn thấy nhiều học giả, văn nhân, nghệ sĩ “cầm tinh con Rắn”, như ông tổ nghệ thuật tuồng Đào Tấn, sinh năm Ất Tỵ (1845). Hay nhà văn Nguyễn Bá Học, sinh năm Đinh Tỵ (1857), để lại hậu thế câu danh ngôn: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Nhà văn liệt sĩ Nam Cao, sinh năm Đinh Tỵ (1917), rất xông xáo, sắc sảo, nồng nàn trong cả những tác phẩm nổi tiếng, cũng như trong cuộc đời cống hiến cho cách mạng đến khi hy sinh.