Những huyền tích về ngôi đền trăm tuổi
Nằm cách TP Vinh (Nghệ An) khoảng 15km, đền Làng Hiếu ở phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò không chỉ được nhân dân trong vùng tôn thờ, mà còn là địa điểm thu hút khách phương xa về ghé thăm. Đền được xây dựng vào thời Lê Trung hưng để thờ Bản cảnh Thành hoàng. Ngoài ra, đền còn là nơi dân cư miền biển Cửa Hội chọn để thờ các vị thần như: Cao Sơn, Cao Các, Đức Thánh Mẫu, Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn, cá Ông.
Ông Võ Văn Hạ (75 tuổi) – người quản lý đền cho biết, đền Làng Hiếu có bề dày lịch sử hơn 350 năm, được sắc phong của vua Lê Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Hưng. Cho đến nay, đền vẫn còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong, nhiều đồ tế khí, tượng pháp xưa.
Theo thần tích kể lại, vào năm Nhâm Dần 1782, vùng đất Cửa Hội xuất hiện bệnh dịch tả hoành hành, các thầy lang trong vùng đều bất lực trước bệnh dịch. Nhiều người dân không qua khỏi, những người còn lại lập đàn kêu trời. Khi đó, bỗng có một vị thầy lang đi qua, cứu chữa cho nhân dân một cách thần kỳ. Sau khi bệnh dịch được dập tắt, người này cũng biến mất không để lại danh tính. Để tưởng nhớ công lao to lớn của vị ân nhân này, nhân dân đã tôn ông là Bản cảnh Thành hoàng và dựng đền Làng Hiếu để thờ phụng. Thần thường hiển linh bảo quốc, hộ dân, được các triệu đại phong kiến sắc phong Bản cảnh Thành hoàng Đại vương tôn thần.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đặc biệt là thời kỳ chiến tranh, đền Làng Hiếu đã bị hủy hoại khá nhiều. Đến năm 2011, đền được chính quyền cùng người dân góp công, góp sức phục dựng, tôn tạo trên nền đất cũ gồm: Thượng điện, Trung điện, Hạ điện và các công trình phụ trợ. 1 năm sau đền Làng Hiếu được hoàn thiện. Dù được trùng tu nhưng ngôi đền vẫn mang phong cách cổ kính truyền thống và được người dân lưu giữ.
Phần mộ, lăng thờ thần cá tại nghĩa trang cá Voi. |
Năm 2015 đền Làng Hiếu được UBND tỉnh Nghệ An công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Theo ông Hạ: “Ngôi đền rất linh thiêng, là chốn để người dân trong vùng đến thắp hương, cầu khấn, nhất là vào các dịp mồng 1 hay ngày rằm hàng tháng”.
Đặc biệt, ngôi đền thu hút khách thập phương đông nhất là vào ngày 15/3 âm lịch hàng năm – lễ Cầu ngư. Trong ngày ấy, chính quyền địa phương và người dân tổ chức rước kiệu từ đền ra biển để cầu bình an cho ngư dân, thuyền cá đầy khoang... Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, do dịch bệnh phức tạp nên các lễ hội không được tổ chức rầm rộ như trước.
Và một điều đặc biệt của ngôi đền này so với các ngôi đền khác trên cả nước, thu hút sự hiếu kì của người dân đó chính là khu lăng mộ thờ 89 xương cốt vị Thần Ngư (hay còn gọi là cá voi, cá Ông).
Kỳ bí nghĩa trang cá voi lớn nhất miền Trung
Trong tâm thức ngư dân nơi đây, cá Ông chính là thần Nam Hải luôn bảo vệ, nâng đỡ họ trước sóng gió, uy lực của đại dương. Cá Ông có mặt khắp nơi trên biển bao la, cặp vào thuyền và dẫn dắt thuyền vào bờ một cách an toàn. Các “ngài” có một vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của ngư dân. Người dân nơi đây quan niệm tuyệt đối không săn bắt và ăn thịt cá voi. Hay mỗi lần gặp cá voi mắc cạn đều ra sức cứu giúp và đưa cá ra biển.
Còn nếu phát hiện cá Ông đã chết, dạt vào bờ, người dân đều đưa về đây chôn cất với cả tấm lòng thành kính. Theo tục lệ của ngư dân đi biển, người nào phát hiện thấy “thần” đầu tiên thì người đó có bổn phận chôn cất và để tang ông như để tang chính cha mẹ mình. Dựa vào kích thước của “thần” mà người dân sẽ nhận biết “vị” nào cá Ông, “vị” nào thần Cô, thần Cậu.
Toàn bộ những nghi lễ liên quan đều phải được thực hiện dưới quy mô của làng vạn. Sau khi làm lễ chôn cất, ngư dân sẽ để tang cá ông 3 năm. Sau thời gian trên, họ sẽ làm lễ cất mồ, mang hài cốt ông về đền Làng Hiếu thờ phụng. Hàng năm, những gia đình thờ cá ông phải tổ chức làm giỗ, trước ngày giỗ phải đến đền thắp hương, khấn mời như người trong gia đình. Còn vào các ngày rằm và dịp lễ hội, đông đảo người dân tìm đến nghĩa trang nằm trong khuôn viên đền Làng Hiếu để thắp hương, khấn bái, cầu xin sự bình an.
Ông Võ Văn Hạ, người trông coi đền chia sẻ về những câu chuyện liên quan đến đền và nghĩa trang cá Ông. |
Trong số nhiều ngôi mộ cá voi được chôn cất, lo hương khói tại đây, có một ngôi mộ đặc biệt hơn cả. Đây là phần mộ, lăng thờ thần cá. Tương truyền đây là “ông cá” đầu tiên được an táng tại đền từ thế kỷ 19. Trong lăng có đặt bệ thờ, chính giữa là bài vị thần Ngư; phía sát mái có đề 3 chữ Hán “Lăng Thần Ngư”.
Các cụ cao niên trong làng kể lại rằng, xưa vùng Cửa Hội thường xuất hiện một con cá voi to như chiếc tàu, đã cứu vớt được rất nhiều ngư dân bị nạn. Khi “ngài” mất, xác trôi vào bờ, ngư dân phải dùng tới 60 đôi chiếu để đắp nhưng vẫn không kín thân. Lễ an táng ngài diễn ra vô cùng long trọng với sự tham gia của hầu hết người dân miền biển này.
Về sau, bộ xương của ngài được cất táng vào lăng chính của khu nghĩa trang Ngư Ông cạnh đền Làng Hiếu. Theo chia sẻ của ông Hạ, cho đến hôm nay, hài cốt của “Ngài” vẫn đang nằm trong ngôi mộ lớn này. Đây là phần mộ linh thiêng nhất trong toàn bộ nghĩa trang.
Cá voi được phụng thờ tại đền Làng Hiếu như vị thần và được gọi tôn kính là Cá Ông. |
Ngày nay, ngư dân đi biển với một tâm thế khác xưa, không còn “sợ biển” như tổ tiên, ông bà họ trước đây. Bởi lẽ, họ có nhiều phương tiện, thông tin hiện đại để liên lạc với đất liền. Thêm vào đó, mỗi ngày, mỗi giờ ngư dân đều cập nhật tình hình thời tiết nên tránh được những hiểm họa từ thiên nhiên ngoài biển khơi.
Hơn nữa, nhiều ngư dân sắm được thuyền to vươn đến ngư trường xa, đánh bắt dài ngày. Thế nhưng, trong tâm thức của các ngư dân, cá Ông vẫn là loài cá linh thiêng, là “vị thần” phù hộ cho họ được xuôi chèo mát mái. Vì thế, những tục lệ liên quan đến cá Ông đến ngày nay vẫn được mọi người duy trì, thực hiện bằng cả tấm lòng thành. Đó như là nét “di sản văn hóa miền biển” của ngư dân.
Để thể hiện lòng tôn kính đối với cá ông và các vị thần linh, người dân phường Nghi Hải chọn ngày 15/3 âm lịch để tổ chức lễ hội Cầu Ngư. Mục đích là cầu cho mưa thuận gió hòa, người dân bình yên trở về, đánh bắt được nhiều tôm cá. Đây cũng là dịp để bà con động viên nhau bám biển, giúp người dân đoàn kết, gần gũi, xây dựng nét văn hóa đặc sắc.
Lễ hội cầu Ngư chính là một điểm nhấn quan trọng, là tín ngưỡng tâm linh của ngư dân vùng biển, tạo nên một nét văn hóa đặc sắc của ngư dân vùng biển miền Trung nói chung và Nghệ An nói riêng. Lễ hội này còn thể hiện ý thức uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ công đức các vị tiên hiền có công lập đền, dựng nghề của người dân.