Cần rút bớt lao động phi chính thức để cải thiện chất lượng kinh tế

(PLO) - Trong khi nhóm tuổi 24 – 35 có việc làm phi chính thức chiếm 47%, thì nhóm 35 – 40 tuổi lên tới 53%, tức tuổi càng cao thì tỉ lệ lao động làm việc ở khu vực không có quan hệ lao động càng tăng. Điều này đặt ra vấn đề Việt Nam cần phải thúc đẩy chuyển dịch lao động phi chính thức sang chính thức nhằm bảo vệ quyền lợi lao động, thúc đẩy kinh tế quốc gia.
Lao động phi chính thức là lao động tự  tạo công việc, không có hợp đồng lao động, không được đóng BHXH, BHYT hay hưởng lương cố định. (Ảnh minh họa)
Lao động phi chính thức là lao động tự tạo công việc, không có hợp đồng lao động, không được đóng BHXH, BHYT hay hưởng lương cố định. (Ảnh minh họa)

2/3 số lao động của Việt Nam là lao động “phi chính thức”

Sáng 4/10, tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê phối hợp với Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Viện Khoa học lao động và xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức hội thảo công bố Báo cáo lao động phi chính thức.

Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, việc nghiên cứu khu vực kinh tế phi chính thức cũng như việc làm phi chính thức ở Việt Nam là cần thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Báo cáo lao động phi chính thức năm 2016 nhằm cung cấp những thông tin cơ bản, góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.

Cũng theo đó, Vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và lao động, Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Xuân Mai cho biết, cuộc điều tra lao động việc làm là cuộc điều tra mẫu do Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với quy mô mẫu khoảng 20.000 hộ/tháng và tương ứng với cả năm khoảng 240.000 hộ, thực hiện từ năm 2007, nhưng các thông tin về lao động có việc làm phi chính thức mới được đưa vào bảng hỏi điều tra từ năm 2014.

Báo cáo lao động phi chính thức cho thấy, lao động trong khu vực phi chính thức thường có việc làm bấp bênh, thiếu ổn định; không có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng thỏa thuận miệng, thu nhập thấp, thời gian làm việc dài. Cơ sở sản xuất kinh doanh trong khu vực này thường có quy mô rất nhỏ hoặc siêu nhỏ, không đăng ký kinh doanh, không đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không chi trả các chế độ phụ cấp và các khoản phúc lợi xã hội khác cho người lao động…

Cụ thể: quy mô lao động phi chính thức khá lớn với trên 18 triệu người và chiếm 57,2% tổng số lao động phi nông nghiệp. Xét về mặt tổng số thì lao động có việc làm chính thức và phi chính thức đều có xu hướng tăng nhưng theo ngành nghề thì lao động làm nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm (giảm từ 24 triệu người năm 2014 xuống còn 21,4 triệu người năm 2016).

Khoảng 60% lao động phi chính thức tập trung ở khu vực nông thôn nơi có nhiều làng nghề truyền thống và các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, các tổ hợp tác. 

Theo báo cáo, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Hồng là những nơi có dân cư đông đúc và cũng là nơi tập trung nhiều lao động việc làm phi chính thức nhất toàn quốc. Trong đó, TP.Hà Nội và TP.HCM là 2 thành phố lớn và cũng là hai trung tâm kinh tế- chính trị có số lao động phi chính thức lớn nhất và chiếm trên 20% tổng số lao động phi chính thức của các nước.

Ngược lại, vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có dân số ít, lao động chủ yếu làm nông, lâm nghiệp, ngành nghề không đa dạng nên tỷ trọng lao động phi chính thức thấp hơn.

Phần lớn lao động phi chính thức làm việc trong 3 nhóm ngành là công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng và bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy. Tỷ trọng lao động phi chính thức của 3 nhóm này chiếm tới gần 70% tổng số lao động phi chính thức; tiếp theo đó là nhóm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống với khoảng 11%.

Tiền lương bình quân mỗi tháng của lao động phi chính thức thấp hơn của lao động chính thức ở tất cả các vị thế việc làm. Tiền lương bình quân của nhóm lao động chính thức vào khoảng 6,7 triệu đồng/người/tháng, tiền lương bình quân của nhóm lao động phi chính thức chỉ bằng hơn một nửa con số đó (4,4 triệu đồng). Hầu hết lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội (BHXH)(97,9%), chỉ có 0,2% được đóng BHXH bắt buộc, còn lại 1,9% đóng BHXH tự nguyện. Trong khi đó, tỷ lệ lao động chính thức có BHXH bắt buộc lại rất cao (80,5%). 

Cần rút bớt lao động phi chính thức

Trước tình trạng trên, giải pháp được nhiều chuyên gia đưa ra để cải thiện chất lượng kinh tế là phải rút bớt được lao động phi chính thức mà trọng tâm là rút bớt lao động nông nghiệp, nông thôn.

Theo chuyên gia ILO, để giảm bớt lao động phi chính thức thì phải thúc đẩy hóa việc chính thức việc làm thông qua việc đưa lao động vào làm tại các công ty, có ký kết hợp đồng. Lao động được đóng BHXH, mua Bảo hiểm y tế (BHYT), được bảo vệ quyền lợi…Nhà nước cần thiết kế các chế độ đảm bảo công bằng với BHXH bắt buộc. Nhà nước có thể nghiên cứu đưa ra các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ một phần kinh phí để người lao động phi chính thức được tham gia BHXH tự nguyện.

Ngoài ra, để khắc phục sự yếu thế và giảm tính dễ bị tổn thương đối với lao động phi chính thức, ông Đoàn Quang Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội cho rằng, Nhà nước cần có những chính sách, giải pháp hỗ trợ cụ thể nhằm mở rộng sự bảo vệ đến nhóm lao động này như:

Cần có các chương trình hành động cụ thể khuyến khích các hộ, cơ sở kinh doanh đăng ký thành lập dưới các hình thức doanh nghiệp; cần đơn giản hóa các thủ tục chuyển đổi, đăng ký, loại bỏ các loại giấy phép không cần thiết. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ về thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình gia nhập, rút lui khỏi thị trường; cần cụ thể hóa các chương trình hỗ trợ về vốn, tín dụng, mặt bằng sản xuất, công nghệ, thông tin, tiêu thụ sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực…

Đồng quan điểm, Vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và lao động Nguyễn Thị Xuân Mai bổ sung: “ Trong chính sách phát triển nông thôn, cần chú ý các hình thức hợp tác, liên kết các hộ, cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ. Tạo điều kiện cho họ tham gia cung cấp các sản phẩm thủ công và dịch vụ phục vụ du lịch hay tham gia cung cấp sản phẩm “sạch” phục vụ các chuỗi bán hàng tại các đô thị..”.

Đọc thêm