Chính sách 'hình quả mít' làm sao để công nghiệp đột phá?

(PLO) -  Theo TS Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội: Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua “mang hình hài của quả mít, rất nhiều mũi nhọn như nhau nên không biết được đâu là ưu tiên, đâu là đột phá”, giờ đã đến lúc buộc phải thay đổi…

Chính sách  'hình quả mít' làm sao để công nghiệp đột phá?

Hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” do Ban Ban Kinh tế TW phối hợp với Bộ Công thương tổ chức ngày hôm qua, 10/3, nhiều học giả, chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đã hiến kế đề xuất xây dựng chính sách phát triển nền công nghiệp quốc gia…

Nguy cơ hậu công nghiệp hóa quá sớm

Theo Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Ban Kinh tế TW, TSKH. Nguyễn Văn Bình, trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đã thể chế hóa thành khoảng 300 văn bản QPPL bao quát khá đầy đủ các nội dung có liên quan đến chính sách công nghiệp quốc gia. 

Với khối lượng văn bản khổng lồ đó, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, TS Nguyễn Đức Kiên đã hình dung chính sách công nghiệp của Việt Nam mang hình hải của quả mít. Trưởng ban Ban Kinh tế TW Nguyễn Văn Bình  thẳng thắn cho rằng nhận thức và tầm nhìn của các cấp ủy, chính quyền,  và cộng đồng về chính sách công nghiệp quốc gia chưa đầy đủ, có nơi còn bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ và tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, quan hệ thân hữu.

Cùng với đó, việc tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách công nghiệp quốc gia ở các cấp, các ngành và địa phương còn thụ động, chậm trễ, không rõ trách nhiệm và quyền hạn. QLNN trong lĩnh vực công nghiệp nhiều lúc còn buông lỏng, còn nhiều bất cập trong phân công, phân cấp quản lý công nghiệp và phân định vai trò của TW và địa phương trong phát triển công nghiệp còn nhiều bất hợp lý.   

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển công nghiệp đất nước cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, điển hình như: Công nghiệp nước ta đang ở trình độ thấp, chủ yếu đang phát triển theo chiều rộng, nội lực còn yếu, phụ thuộc nhiều DN FDI, sự liên kết giữa các FDI với các DN trong nước còn hạn chế; Tăng trưởng sản xuất công nghiệp chưa cao, thiếu bền vững. năng suất lao động (NSLĐ) công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến – chế tạo còn ở mức thấp. 

Trưởng ban Ban Kinh tế TW  cũng tỏ ra lo ngại khi chỉ ra rằng Việt Nam đang đối diện với nguy cơ hậu công nghiệp hóa quá sớm và công nghiệp hóa thu hút ít lao động. Việt Nam đã không tận dụng tốt được lợi thế đang trong giai đoạn dân số vàng và lợi thế là nước đi sau trong công nghiệp hóa.  

Đâu là đột phá?

Đến từ Đại học Waseda, Nhật Bản,GS. Trần Văn Thọ cho rằng Việt Nam  phải đẩy  mạnh  công nghiệp  hóa vừa  theo  diện rộng vừa tiến sâu vào chuỗi giá trị của sản phẩm công  nghiệp, đồng  thời cần có chính sách  khôn  ngoan chọn lựa FDI và nuôi dưỡng các DN tư nhân trong nước. Phải tạo điều kiện cho DN Việt Nam  kết nối có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và từng bước tạo lập được thương hiệu riêng. GS Trần văn Thọ cho rằng chính sách đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định vì tình hình thay đổi thì chiến lược, chính sách cũng phải khác. 

GS Trần văn Thọ nhận định, Việt Nam chậm đưa ra các chính sách thích hợp và thiếu nỗ lực cải cách hệ thống quản lý hành chính, thiếu cán bộ quản lý có năng lực và trách nhiệm, nên đã không thu hút được nhiều FDI trong các ngành liên quan các loại máy móc. Chiến lược quan trọng để phát triển các ngành liên quan đến máy móc là phải phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng rất tiếc hiện nay các ngành này ở Việt Nam còn rất yếu.

Đến từ Đại học Havard, Mỹ, GS David Dapice, đặt vấn đề: Cho đến năm 2025 là Việt Nam cần thay đổi những gì để tăng năng suất? Ông cho rằng, vấn đề thấy được ở đây là GTGT thấp trong nhiều ngành xuất khẩu sản xuất. Hầu hết phụ kiện phải nhập khẩu và thậm chí sau một thập kỷ thì cũng rất hiếm có công ty sản xuất phụ tùng nhỏ nào của Việt Nam có triển vọng tăng trưởng tại Trung Quốc, Đài Loan hay Hàn Quốc. Cần phải giảm các khoản chi, nhất là các chi phí không chính thức là một vấn đề không chỉ giải quyết vấn đề tăng trưởng chậm hay nhanh mà còn là vì sự ổn định xã hội và chính trị. 

Chỉ ra những thách thức trong bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công nghiệp Việt Nam, như: Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; Năng lực công nghệ thấp kém; Các điều kiện bảo đảm cho tăng trưởng công nghiệp thiếu và không ổn định, TS. Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam đề xuất cần phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư; lựa chọn ngành ưu tiên, mũi nhọn; phát triển công nghiệp hỗ trợ; và bảo vệ sản xuất nội địa thông qua hàng rào kỹ thuật…

Kết hợp đưa cuộc sống vào chính sách

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải, chúng ta không thiếu chính sách, nhưng dường như, ngoài một số ít chính sách có hiệu quả, có tác động tạo sự đột phá, thì còn nhiều chính sách được ban hành còn chưa kịp thời và ít tác dụng.

 “Giải pháp trong thời gian tới là, chúng ta cần đổi mới tư duy khi xây dựng chính sách, thay vì chỉ tiếp cận theo hướng “đưa chính sách vào cuộc sống” cần kết hợp đồng bộ với “đưa cuộc sống vào chính sách”, tức là, trên cơ sở các định hướng và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, phải xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống để ban hành những chính sách phù hợp….”- Thứ trưởng Hải đề nghị.

Thứ trưởng cho rằng,các ưu đãi đề xuất cần phải được cân nhắc kỹ, căn cứ vào nguồn lực, để sau khi ban hành, chính sách có thể triển khai thực hiện được. 

Thứ trưởng  cũng đưa ra một số gợi ý về cơ chế, chính sách cần được triển khai nhằm đưa công nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong 20 năm tới như: Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, cần tập trung giải quyết tình trạng “đa nhưng không tinh” của các sản phẩm chế biến, đặc biệt là vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm.  Trong lĩnh vực đầu tư, không đầu tư dàn trải vào tất cả các ngành, các lĩnh vực; tập trung tối đa vào một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng, xây dựng thương hiệu mạnh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài. Trong lĩnh vực thị trường, cần xác định phát triển thị trường hàng hóa là yếu tố quan trọng cho sự phát triển công nghiệp. Trong lĩnh vực liên kết ngành, cần phát huy sức mạnh tổng thể của các thành phần kinh tế, khai thác mọi nguồn lực cho phát triển.

“Vấn đề chính không phải là nên hay không nên có chính sách công nghiệp ưu tiên, mà vấn đề là nên có chính sách công nghiệp ưu tiên như thế nào. Việt Nam không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp cá biệt như hiện nay. Thay vào đó, chính phủ nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số “lĩnh vực năng lực” phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước…”- TS Vũ Thành Tự Anh, Trường Đại học Fulbright Việt Nam đề xuất.

Đọc thêm