Ông bảo: “Cả đời tôi gắn bó với biển. Biển đã ngấm vào máu thịt tôi. Thời gian còn lại của cuộc đời, nếu làm việc gì về biển, kể cả cống hiến tài sản, tính mạng tôi cũng luôn sẵn sàng”. Ông là Phạm Thế Hiển, ngụ phường 3. TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Xây đảo cùng bộ đội
Ông Hiển không nhớ bao nhiêu lần giong thuyền vượt sóng ra khơi, nhưng lần ông mua tàu gỗ ra Trường Sa cùng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân vận chuyển vật liệu xây đảo Đá Lát thì không thể nào quên.
“Lúc đó tôi là “lính không đeo quân hàm”. Nói đi Trường Sa ngày ấy háo hức lắm. Những ngày ngâm mình dưới biển, vác đá xây đảo Đá Lát là thời gian ý nghĩa, tự hào, đẹp đẽ nhất của đời tôi. Và cũng chính từ đó, tôi quyết tâm gắn đời mình với nghề đi biển”, ông Hiển mắt rưng rưng nhìn ra hướng biển. Kỷ niệm về những ngày tháng vác đá xây đảo ùa về.
Tháng 5/1985, phong trào “Tất cả vì Trường Sa thân yêu” phát động trên toàn quốc. Một buổi chiều từ cảng cá về nhà, nghe đài truyền thanh của phường thông báo “Vận động bà con ngư dân đi Trường Sa, cùng bộ đội Hải quân xây đảo, bảo vệ Tổ quốc”, tay cầm lưới, mắt hướng lên loa truyền thanh, ông nhủ thầm: “Đi Trường Sa xây đảo, một nghĩa cử cao đẹp với Tổ quốc, tại sao mình không đi”.
Rồi ông băn khoăn, tiền đâu mua tàu, khi vốn liếng của mình chưa đầy chục triệu đồng, vợ không việc làm, ba con còn nhỏ? Sau bữa cơm tối, ông tìm sách báo viết về Trường Sa đọc. Hình ảnh bộ đội Hải quân canh biển, xây đảo đã làm ông xúc động.
Đêm, ông bảo với vợ: “Anh có ý định mua tàu gỗ tham gia chiến dịch đi Trường Sa xây đảo cùng bộ đội hải quân”. Bà Võ Thị Phần quay ngoắt lại: “Ông khùng hay sao mà mang tiền đổ biển. Nhiệm vụ ấy đã có quân đội lo, việc gì đến ông?”.
Ông phân trần: “Mình góp công sức cùng bộ đội xây đảo là bảo vệ Tổ quốc. Bây giờ Tổ quốc đang cần, mình không làm thì lúc nào làm được”.
Sau nhiều lần thuyết phục, phân tích điều hơn lẽ thiệt, cuối cùng bà Phần cũng đồng ý cho ông Hiển mua tàu. “Con tàu gỗ lúc đó hơn 30 triệu, một số tiền quá lớn đối với tôi. Nhưng tôi đã quyết, khó khăn mấy cũng phải thực hiện”, ông Hiển chia sẻ.
Dốc toàn bộ vốn liếng gom góp 20 năm đi biển không đủ, vận động người thân, bạn bè góp thêm chẳng ăn thua gì, bà Phần đành đi vay lãi cho đủ số tiền 33 triệu đồng mua tàu.
Ngày giong thuyền ra khơi, ông Hiển sung sướng cầm vô lăng thẳng hướng Trường Sa kiêu hãnh, còn bà Phần mắt đỏ hoe tiễn chồng mong ông bình yên sớm trở về. “Đối với biển Trường Sa, tôi chẳng lạ gì, nhưng cùng bộ đội xây đảo thì đây là “nhiệm vụ đặc biệt” trong đời tôi. Lúc đó tôi đi theo tiếng thúc giục của trái tim”, ông Hiển chia sẻ.
|
Vợ chồng ông Hiển chụp ảnh kỷ niệm 33 năm ngày cưới. |
“Lính không quân hàm”
Con tàu 15 mã lực hướng Trường Sa thẳng tiến. Sau hai ngày đêm chồm lên, ngụp xuống trong sóng gió, ông Hiển và sáu thuyền viên đến đảo Đá Lát. Tàu của ông được giao nhiệm vụ chở đá, cát, xi măng từ tàu Mỹ Á vào đảo Đá Lát cho cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xây dựng.
Giữa cái nắng cháy da cháy thịt, giữa sóng biển gầm gào suốt ngày đêm, ông và sáu thuyền viên cùng các chiến sĩ trên tàu lớn chuyển hàng nghìn tấn vật liệu từ tàu vào đảo.
“Lúc đó chúng tôi làm quần quật từ sáng sớm đến chiều tối. Chúng tôi chạy đua với thời gian. Nếu thủy triều lên, tôi lái cho tàu chạy sát mép đảo, thủy triều xuống thì dừng lại cách đảo chừng 100m rồi chuyển vật liệu vào đảo bằng tay. Sau ít ngày làm cật lực, nhìn nhau chỉ thấy con mắt và hàm răng, ai cũng đen nhẻm, chai sạm vì nắng gió”, ông Hiển nhớ lại.
Bảy “người lính không quân hàm” cùng cán bộ, chiến sĩ công binh sau nhiều ngày chạy đua lăn lộn cùng sóng gió, đã khiến đảo chìm Đá Lát “mọc” giữa đại dương.
Nhìn “Loa thành” mang hình Tổ quốc sừng sững giữa biển trời, cán bộ chiến sĩ Đoàn 83 công binh Hải quân ôm nhau khóc vì sung sướng. Trong niềm hạnh phúc vô bờ ấy, có cả giọt nước mắt mặn mòi của ông Hiển và sáu thuyền viên.
“Lúc đó chúng tôi nhảy lên hò reo. Anh em đi xung quanh nhà, sờ tay vào tường cảm nhận như mình đang chạm trái tim Tổ quốc. Tôi nhủ thầm trong bụng, việc tự nguyện mua tàu đi Trường Sa thật ý nghĩa. Tôi nghĩ ngày trở về đất liền gặp vợ và 3 con đang mong chờ”, ông Hiển nhớ lại.
Niềm vui chưa qua, thì đúng đêm ấy, biển bỗng nhiên nổi sóng, mưa trút dữ dội, sấm chớp ầm ầm. Đứng trên tàu Mỹ Á hướng mắt về đảo Đá Lát, hơn 30 trái tim thắt lại. “Liệu đảo có sao không? Nếu công trình bị sóng gió cuốn trôi, bao công sức tan thành nước biển”. Nỗi lo hằn lên khuôn mặt mọi người.
Đoàn tàu lùi ra xa neo đậu để tránh mắc cạn san hô, thuyền viên trên tàu ông Hiển lên tàu lớn đề phòng rủi ro. Những con sóng lừng cuộn từ lòng biển, dâng cao như ngọn núi rồi đổ ập xuống chiếc tàu gỗ nhỏ bé của ông Hiển buộc sau lái con tàu lớn giữa đêm đen.
“Lúc đó, bỗng dưng thấy tiếng “phật” một cái. Tôi chạy ra sau lái tàu lớn thì thấy ghe của mình đã bị sóng đánh đứt dây lôi ra xa. Tôi hô to: “Tàu tôi chìm rồi, tàu chìm rồi”. Mọi người chạy tới, bất lực tàu nhỏ bị sóng nhấn chìm.
Tôi đau như đứt từng khúc ruột, bật khóc vì thương tàu quá. Nhưng cũng chính từ vụ chìm tàu này mà tôi đã hiểu, nếu đánh bắt xa bờ nhất thiết phải sắm tàu lớn mới chịu đựng được sóng gió”, ông Hiển chia sẻ.
|
Ông Phạm Thế Hiển với chiếc máy I-com kỷ vật |
“Tổng đài canh bão”, cứu tàu tại gia
Không chỉ xây đảo cùng bộ đội, ông Hiển còn mua máy I-com rồi tự nguyện làm “tổng đài canh bão tại gia”. Ông Hiển vào trong buồng ôm ra chiếc máy I-Com sóng ngắn đặt trên bàn nước. Tay mở bọc ni-lon, miệng ông giải thích:
“Cái máy này tui mua hơn 22 triệu đồng, năm 1997 tương đương hơn 4 cây vàng để gọi tàu tránh bão. Nhờ nó mà hàng ngàn lượt ghe, tàu thoát nạn, nhiều thuyền viên từ biển trở về đấy”.
Sau nhiều lần chứng kiến ghe, tàu, ngư phủ bỏ mạng giữa biển khơi, không cầm lòng trước thiệt hại về tài sản của nhiều đồng nghiệp, ông Hiển quyết định mua máy thông tin (loại I-Com sóng ngắn) về đặt tại nhà mình và tự nguyện làm “tổng đài”, với mục đích thông báo tình hình thời tiết, kêu gọi tàu khẩn cấp vòng, vượt tránh bão an toàn.
Tin ông Hiển lập “tổng đài canh bão tại gia” cứu hộ các ghe tàu gặp nạn trên biển được truyền lên tận Trung ương. Năm 2007, Cục Dân quân Bộ Quốc phòng đã quyết định bổ nhiệm ông giữ chức “Trung đội trưởng Trung đội Dân quân biển” tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, có nhiệm vụ thông báo an ninh, tình hình trên biển.
Chiếc máy I-com cũ kỹ được ông dời từ “tổng đài tại gia” xuống gắn trên tàu. Thêm một lần nữa, ông lại cùng với 20 ngư dân vượt sóng ra biển Hoàng Sa, Trường Sa, vừa đánh cá, vừa nắm tình hình.
Tất cả những thông tin thời tiết, động thái, tàu lạ, được ông Hiển ghi chép đầy đủ thông báo về Ban chỉ huy quân sự tỉnh.
“Trung đội tôi có 20 thuyền viên được chia làm hai tiểu đội. Tất cả động thái của tàu nước ngoài đều được theo dõi chặt chẽ. Nhiều người hỏi gặp tàu Trung Quốc sợ không? Tôi trả lời chẳng sợ gì cả. Mình đánh cá trên vùng biển, chủ quyền của mình thì sợ chi chứ”, ông Hiển quả quyết.
Năm nay ông Hiển bước sang tuổi 65, vẫn hăng hái ra khơi như thời trai trẻ. Ông bảo: “Nói thiệt với anh, những ngày tháng còn lại của cuộc đời, nếu làm việc gì về biển, đảo, tui luôn sẵn sàng, kể cả hiến tài sản, tính mạng. Biển đã ngấm vào máu rồi”. Ông Hiển cười khà khà nhìn lên tấm bằng khen treo trong phòng khách hãnh diện./.