Sơ thẩm lần 2 vụ tranh chấp tài sản thừa kế tại Hải Phòng: Sự thật sáng tỏ

(PLO) - Đúng 20 năm, kể từ ngày khởi kiện, phiên tòa sơ thẩm lần hai đã được mở xét xử vụ án chia thừa kế giữa nguyên đơn là bà Lê Thu Khuê với bị đơn là ông Hoàng Viết Phẩm và bà Hoàng Thuý Phương (cùng ở số 8 Hai Bà Trưng, TP Hải Phòng). Bản án mới đây nhất của TAND TP Hải Phòng đã làm rõ sự thật của vụ tranh chấp, được dư luận đồng tình, ủng hộ.
Bà Lê Thu Khuê trước bàn thờ em trai

Vụ án này Báo Pháp luật Việt Nam đã từng đề cập. Năm 1996, khi xét xử sơ thẩm, TAND TP.Hải Phòng đã chia tầng 1 nhà số 8 Hai Bà Trưng cho ông Phẩm, bà Phương; diện tích tầng 2 (bao gồm cả phần gầm cầu thang lối đi lên tầng 2 của ngôi nhà) được chia cho bà Khuê. Năm 2007, tức là 11 năm sau, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội mới xét xử phúc thẩm vụ kiện này.

Khác với Tòa sơ thẩm, Tòa Phúc thẩm lại giao ngược lại phần diện tích gầm cầu thang (là nơi một người em trai của bà Khuê là ông Lê Quang Hùng, bộ đội xuất ngũ, một người bị bệnh tâm thần đang sinh sống) cho phía ông Phẩm, bà Phương.

Ngày 24/1/2008, Chánh án TANDTC đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án nêu trên. Ngày 14/5/2008 Hội đồng thẩm phán, TANDTC đã có quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Hải Phòng xử lại từ trình tự sơ thẩm. Quyết định của Hội đồng thẩm phán chỉ rõ: Tòa án cấp sơ thẩm xác định toàn bộ căn nhà trên là tài sản của cố Thứ, cố Khang, ghi nhận sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhường kỷ phần được hưởng và căn cứ vào thực tế, nhu cầu về nhà ở để chia hiện vật là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng không đúng tinh thần của Điều 8 Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và không áp dụng các quy định đã viện dẫn trên của pháp luật, từ đó xác định di sản của cố Thứ, cố Khang chỉ là tầng 2 nhà số 8 Hai Bà Trưng, nhưng lại không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn để chia thừa kế và xác định tầng 1 căn nhà số 8 Hai Bà Trưng là của Nhà nước, từ đó xác định các con của cụ Thìn, các con của cụ Nhân có quyền kê khai, làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là không có cơ sở và không đúng pháp luật...

Với nhiều lý do, đến tận gần cuối năm 2016, tức sau 8 năm hủy án, phiên tòa sơ thẩm lần 2 mới được mở. Theo Bản án số 09 ngày 18/11/2016 của TAND TP Hải Phòng, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự có đủ cơ sở kết luận nhà số 8 Hai Bà Trưng (cũ là số 6 Cát Dài) có nguồn gốc là một trong nhiều nhà là tài sản của cố Lê Quang Thứ và Tô Thị Khang. Năm 1960 thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp Nhà nước đã thu hồi và có để lại nhà số 6 cho chủ sở hữu được ở. Phía nguyên đơn cho rằng toàn bộ nhà số 6 là di sản của cố Thứ và cố Khang, phía bị đơn cho rằng di sản của hai cố chỉ là tầng 2 nhà số 6 còn tầng 1 không phải là di sản của các cố.

Tuy nhiên, theo biên bản bàn giao nhà ngày 10/4/1961 tại phần A là phần tài sản giao cho Nhà nước quản lý bao gồm cả nhà số 8, phần B là phần quyền lợi cố Thứ sẽ được hưởng… Quá trình giải quyết, Công ty Kinh doanh nhà Hải Phòng có quan điểm xác nhận nhà số 8 gồm cả tầng trên và tầng dưới là phần đất giao cho đương sự ở nên công ty không quản lý. Tại Công văn số 147 ngày 30/3/1995, Sở Xây dựng Hải Phòng khẳng định “Căn nhà số 8 Hai Bà Trưng thuộc quyền sở hữu của ông Lê Quang Thứ và vợ là Tô Thị Khang”.

Như vậy với các văn bản nêu trên thì khi thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa Nhà nước không quản lý nhà số 8. Nhà này được Nhà nước giao lại cho chủ sở hữu đó là cố Thứ và cố Khang, kể từ sau khi cải cách thì cố Thứ và cố Khang vẫn là chủ sở hữu căn nhà. Còn nội dung được thể hiện ở phần B “tầng dưới nhà con gái ở có 5 người, tầng trên gác vợ chồng ông Thứ ở có 2 người” chỉ xác nhận những người trong gia đình cố Thứ, cố Khang sử dụng tại thời điểm cố Thứ và cố Khang được Nhà nước giao lại nhà số 8 chứ không phải là căn cứ xác nhận những người thực tế đang sử dụng có quyền sở hữu. Phần sàn 14,21m2 đã bị hư hỏng nặng nhưng cũng vẫn là một phần diện tích ngôi nhà.

Từ những phân tích trên, TAND TP Hải Phòng khẳng định có cơ sở kết luận toàn bộ nhà số 8 Hai Bà Trưng bao gồm cả tầng trên và tầng dưới là di sản thừa kế của cố Thứ và cố Khang.

Sau khi các cố chết, vợ chồng ông Phẩm, bà Phương (bị đơn), bà Khuê (nguyên đơn) ở lại và có sửa chữa duy trì ngôi nhà do vậy cần tính công sức trông coi, gìn giữ ngôi nhà cho 3 người bằng một xuất thừa kế. Do vậy, di sản thừa kế của các cố được chia làm 7 phần.

Sau khi phân tích cụ thể, có lý, có tình các quy định pháp luật hiện hành, TAND TP Hải Phòng đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thu Khuê về chia thừa kế di sản của cố Thứ, cố Khang là nhà số 8 Hai Bà Trưng; giao bà Khuê được sở hữu, sử dụng diện tích 81,3m2 nhà ở tầng 2, diện tích 14,21m2 trên mái nhà ông Quý (được gọi là tầng 3) và diện tích 19,11m2 gầm cầu thang tầng 1, có tổng trị giá hơn 4,5 tỷ đồng (làm tròn số); giao ông Phẩm, bà Phương được sở hữu, sử dụng diện tích 82,19m2 nhà ở tầng 1, có tổng trị giá hơn 6,5 tỷ đồng. Ông Phẩm phải thanh toán chênh lệch cho những người được hưởng thừa kế.

Như vậy, mặc dù phải qua nhiều hành trình tố tụng, nhưng cuối cùng sự thật của vụ án cũng đã được làm sáng tỏ. Bà Lê Thu Khuê, nguyên đơn trong vụ án không giấu nổi xúc động. Có lẽ vì ở cái tuổi 73, sau 20 năm đằng đẵng theo đuổi vụ kiện, niềm tin vào công lý của bà đã được đền đáp. 

Đọc thêm