Đó là câu chuyện của anh Nguyễn Văn Tư (SN 1959, quê ở tỉnh Tiền Giang, hiện ở thôn Phú Xuân A, xã Xuân Phước, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên).
Quá khứ tội lỗi
Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo, lại gặp phải thời loạn lạc, Nguyễn Văn Tư có một tuổi thơ chẳng mấy yên bình khi phải bươn trải ngoài xã hội từ sớm. Do nghèo đói dẫn lối cùng với những tác động tiêu cực của xã hội bấy giờ nên Tư đã lầm đường lạc lối hai lần khi còn chưa bước qua tuổi 20. Đến cuối những năm 70 của thế kỷ trước, Tư đã mang trên mình 2 tiền án về tội trộm cắp tài sản.
Năm 1979, sau khi cải tạo lần hai về nhà, lấy vợ là việc đầu tiên để chàng trai này làm lại cuộc đời. Thế nhưng sau ngày có gia đình riêng, cuộc sống cũng chẳng khá khẩm hơn, gánh nặng trên vai người đàn ông đang ôm ấp mộng làm lại cuộc đời càng nặng hơn gấp bội. Lang thang kiếm việc làm, loay hoay lo gánh nặng cơm áo, bần cùng, Tư lại “ngựa quen đường cũ”.
Đầu năm 1980, trong một lần “hành nghề” ở địa phận tỉnh Đồng Nai, Tư ra tay cướp của một lái buôn người Trung Quốc trên đoạn đường vắng. Do người này chống cự quyết liệt nên Tư đã giết người để thực hiện hành vi của mình.
Sau khi gây án, sợ bị phát hiện, Tư định trốn sang Campuchia nhưng không được. Sống chui lủi, trốn tránh pháp luật được gần một năm, lúc này ở quê vợ của Tư sinh con nhỏ khiến gã nôn nóng về thăm vợ con. Cũng chính vì lý do này mà Tư sa lưới pháp luật.
Đầu năm 1981, Nguyễn Văn Tư bị tuyên án 15 năm tù giam. Khi thụ án, Tư phải trải qua nhiều lần chuyển trại, “bến đỗ” cuối cùng của gã là Trại giam A20 (đóng ở xã Xuân Phước, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên). Gã cũng chẳng ngờ được rằng sau này đây chính là mảnh đất lành để gã làm lại cuộc đời.
Nhờ tình yêu của chị Phương, anh Tư đã làm lại cuộc đời. |
Theo tìm hiểu của chúng tôi, vào Trại giam A20 năm 1983, một năm sau Tư nghe tin dữ từ người mẹ già lên thăm. Vợ gã đã đi lấy chồng và đã sang Singapore sống. Đau khổ tột cùng, gã bắt đầu có tư tưởng bất cần trong trại giam.
“Những giám thị trại giam Xuân Phước nhận thấy sự thay đổi trong tâm lý của tôi nên đã nhẹ nhàng khuyên bảo, giáo huấn. Những ngày sau đó, tôi ngồi trong tù suy nghĩ về những hành động nông nổi của mình, tôi thấy mình còn trẻ, còn cơ hội làm lại cuộc đời. Để không làm khổ ai sau này nữa chỉ có cách là cải tạo cho tốt. Nghĩ là làm, tôi hoàn thành tốt tất cả các công việc mà cán bộ quản giáo giao cho”, anh Tư cho biết.
Mối tình nhiều chông gai
Tư được cán bộ Trại giam A20 tin tưởng giao cho nhiệm vụ chạy máy phát điện, chăn bò, trông kho. Đây là những công việc nhẹ nhàng mà nhiều phạm nhân mơ ước. Thường thì những phạm nhân cải tạo tốt, trước khi ra tù một, hai năm các cán bộ trại giam sẽ xem xét cho ra ngoài lao động tự giác.
Vì Tư có ý thức cải tạo tốt nên năm 1988, 1989 anh đã được ra ngoài lao động tự giác mà không cần sự quản thúc của cán bộ trại giam. Trong những lần đi cải tạo bên ngoài trại giam, Tư đã quen một thôn nữ ở đất này. Đó là chị Hồ Thị Bích Phương (SN 1966).
Vì ăn nói có duyên, ngoại hình lại hơn hẳn những tù nhân khác, thậm chí cả thanh niên trong làng, Tư nhanh chóng chiếm được cảm tình của chị Phương. Không để tâm đến thân phận của Tư, chị Phương đã yêu anh lúc nào không hay.
Anh Tư cho biết: “Không biết từ bao giờ, với tôi, được gặp, được nói chuyện với Phương là một thói quen, niềm vui không thể thiếu. Quen nhau được 3 năm thì tình yêu của cả hai đã trở nên rất thắm thiết. Những buổi chăn bò, chặt củi biến thành những buổi hẹn hò của chúng tôi”.
Mặc dù anh Tư chưa mãn hạn tù, thế nhưng hai người đã ăn “trái cấm”. Kết quả là năm 1991, một bé trai ra đời với nhiều điều tiếng. Vì yêu và tin tưởng anh Tư mà chị Phương một mình sinh con trong sự dị nghị, thậm chí là khinh ghét của nhiều người trong đó có cả bà Hồ Thị Đợi, mẹ của chị. Bố chị Phương là liệt sỹ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhà chỉ có hai mẹ con nên bà Đợi hết mực thương chị.
Tuy nhiên, khi biết chị qua lại với Tư, bà đã phản đối kịch liệt. Chẳng thế mà khi chị sinh cháu, vì không chịu nổi điều tiếng, bà đã nhắm mắt đuổi chị Phương ra khỏi nhà. Thế nhưng bà vẫn nhờ em trai mình dựng lều ở cánh đồng gần nhà để con gái có chỗ ở tạm.
Biết mình được làm bố, anh Tư vừa mừng nhưng cũng vừa thương chị Phương. Đặc biệt là khi chị Phương phải ôm con thơ ra chòi tạm để ở, sống một cuộc sống thiếu thốn. Mỗi lần ra ngoài lao động, anh Tư đều tranh thủ ghé thăm vợ con. Cũng may, một năm sau, anh được đặc xá ra tù trước thời hạn. Đây cũng là lúc để anh bắt đầu đáp đền tình yêu của chị Phương dành cho mình.
Ngôi nhà của vợ chồng anh Tư. |
Vào tù từ năm 21 tuổi, khi ra trại đã ngoài 30. Có được một gia đình lúc này là điều cực kỳ may mắn đối với Tư và anh đã hạ quyết tâm làm lại cuộc đời ở mảnh đất có nhiều duyên nợ này.
Đất lành hóa quê hương
Trò chuyện với chúng tôi, anh Tư tâm sự: “Khi vừa bước chân ra khỏi tù, tôi chạy như bay đến thăm vợ con ở túp lều tạm. Với tâm thế là người tự do, tôi ôm vợ con vào lòng mà vui mừng khôn tả. Vợ tôi cũng rất hạnh phúc, những giọt nước mắt tủi cực lăn lúc nào không hay”.
Vui mừng chưa được bao lâu thì chị Phương lại rơi vào tâm trạng phập phồng lo lắng. Anh Tư nói rằng mình phải về Tiền Giang để lo liệu mọi việc. Phải ở hoàn cảnh của chị Phương mới biết, một tuần chờ đợi lúc này chẳng khác nào đánh cược trong canh bạc cuộc đời.
Bởi có người nói có thể anh Tư ra đi sẽ không quay trở lại nữa, chị cũng chẳng biết địa chỉ anh ấy ở đâu mà tìm. Nhưng tình yêu nơi người thiếu phụ ấy đã được đền đáp. Đúng một tuần sau anh dẫn người thân về Phú Yên để hỏi cưới chị.
Anh Tư sinh sống ở Xuân Phước được một thời gian thì có quy định không cho phạm nhân ra trại được định cư ở nơi đây. Anh phải nhờ đến lãnh đạo Trại giam A20 đứng ra bảo lãnh cho mình ở lại. Sau này anh Tư là một trong những phạm nhận ra trại đầu tiên được nhập hộ khẩu ở Xuân Phước.
Khi mới bắt đầu cuộc sống gia đình, đôi vợ chồng trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Anh Tư đã mạnh dạn dồn hết vốn liếng mua một chiếc xe máy làm nghề xe ôm.
Anh cho biết: “Thời gian ấy, cả xã Xuân Phước mới có lèo tèo vài chiếc xe máy, người trong xã mỗi khi có việc đi đâu hay ốm đau đều nhờ tôi đưa đi. Tôi đưa người bệnh trong xã lên phòng khám ở bệnh viện huyện đến mức bác sỹ trực quen mặt. Đến khi tôi đưa vợ đi đẻ đứa thứ ba, thứ tư bác sỹ còn tưởng tôi đi chở người làng. Người cùng thôn cùng làng quý trọng tôi ở điểm hễ ai bị ốm đau bệnh tật mà phải đi cấp cứu kể cả đêm hôm anh đều đưa đi mà không lấy một đồng tiền công, chỉ lấy đủ tiền đổ xăng”.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, sau khi nhận rể, nhận cháu, bà Đợi còn cho con gái và con rể ít đất ruộng để làm ăn. Tuy nhiên, anh Tư nhận thấy không thể chỉ bám vào ruộng đất mà có thể khấm khá lên được, anh bàn với vợ vay thêm tiền của bà con họ hàng và của cán bộ trại, mua đất, xây dựng ngôi nhà ngay trên con phố chính gần cổng Trại giam A20 để buôn bán.
Vợ chồng anh được lãnh đạo trại tin tưởng giao cho việc cung cấp nhu yếu phẩm. Bên cạnh đó, anh còn tận dụng mặt trước ở quán cà phê nhỏ. Nhờ đó, đến nay vợ chồng anh đã có cuộc sống khá giả, lo cho con cái ăn học đến nơi đến chốn.
Khi ra về, chúng tôi hỏi: “Sao anh không đưa chị về Tiền Giang sinh sống”. Anh cười: “Có vợ con và công việc ổn định ở đây rồi nên ở mảnh đất này vẫn tốt hơn. Lâu lâu về quê thăm gia đình, người thân là được rồi”.
Trong những câu chuyện tưởng như kể mãi không hết của người đàn ông này, chúng tôi biết, tình yêu, sự động viên của cán bộ trại giam chính là thứ kết nối anh với mảnh đất lành nơi đây.