Bà Carol Panara là người được giao nhiệm vụ tăng doanh số cho OxyContin bằng cách nhắm đến các bác sĩ thiếu kinh nghiệm và gạt đi nguy cơ người bệnh sẽ lạm dụng thuốc.
Sau khi gia nhập công ty vào năm 2009, bà và các đồng nghiệp được yêu cầu giới thiệu thuốc tới các bác sĩ đa khoa chữa trị các chứng bệnh thông thường như đau lưng thay vì chỉ tìm đến các chuyên gia giảm đau hay bác sĩ ung thư- những người vốn thông thạo hơn về thuốc giảm đau opioid và các rủi ro. “Họ bảo chúng tôi gọi các bác sĩ gia đình vì số lượng bác sĩ này nhiều hơn bác sĩ giảm đau”, bà nói.
Theo lời kể của bà này, bà và các đồng nghiệp được hướng dẫn nói với các bác sĩ nói với các bệnh nhân về chứng “nghiện thuốc giả”, thuyết phục họ rằng đó không phải là nghiện thực sự mà chỉ là do liều giảm đau chưa đủ nên cần phải kê thêm nếu bệnh nhân có biểu hiện nghiện thuốc quay lại xin thêm thuốc. Bà Panara được hướng dẫn nói với các bác sĩ rằng việc đòi thêm thuốc sẽ dừng lại khi người dùng được kê liều cao hơn và cơn đau được kiểm soát hẳn. Giờ đây, theo kết luận của bà này, chính cách thức đó đã khiến cơ thể người bệnh phụ thuộc nhiều hơn vào thuốc và biến họ thành con nghiện”.
Bà Panara và một nhân viên bán hàng khác cũng được lệnh quảng cáo không chỉ OxyContin mà cả các loại thuốc giảm đau khác. Hợp đồng của họ ghi rằng sẽ có tiền thưởng nếu mở rộng được thị trường dù loại thuốc mà họ bán được không phải là OxyContin.
Như vậy, đội ngũ bán hàng của Purdue đã giúp bán hàng triệu viên thuốc giảm đau từ các công ty khác, góp phần khiến cuộc khủng hoảng nghiện thuốc trở nên trầm trọng hơn. Một nhà phân tích ngành dược và một quản lý cao cấp của Purdue nhận định rằng, sở dĩ công ty làm vậy là do Purdue muốn các bác sĩ kê thuốc giảm đau thường xuyên hơn. Khi bác sĩ đã hình thành thói quen như vậy, các nhân viên bán hàng có thể dễ dàng thuyết phục họ chuyển sang kê OxyContin. Ngoài Purdue, gia đình Sackler còn sở hữu Rhodes Pharma, cũng sản xuất thuốc giảm đau.
Hàng triệu người mắc nghiện mà hàng ngàn người Mỹ đã mất mạng vì lạm dụng loại thuốc này |
Tổng cộng, Purdue và Rhodes chiếm 6% thị phần thuốc giảm đau ở Mỹ, lớn thứ 7 ở nước này. Ông Mark Chalos - luật sư trong nhiều vụ kiện chống lại Purdue- cho hay, cái tên Sackler hiện lên trang trọng ở bảo tàng trên khắp thế giới và cả những nơi tập trung giới siêu giàu như New York nhưng gia đình này cũng kiếm được nhiều tiền đến mức kinh khủng nhờ bào chế và quảng cáo thuốc opioid.
Trên thực tế, thương hiệu OxyContin không phải phát minh hoàn toàn mới của nhà Sackler. Các chất giảm đau như oxycodone và morphine đã được biết đến cách đây nhiều thập kỷ, thậm chícả thế kỷ. Tuy nhiên, Sackler đã thay đổi cuộc chơi khi tìm ra cách ép một lượng lớn oxycodone vào mỗi viên OxyContin sau đó bán loại thuốc này một cách vô trách nhiệm ra thị trường.
Ban đầu, thuốc chỉ dành cho nhóm người trước nay vẫn cần thuốc giảm đau loại mạnh như bệnh nhân ung thư cuối đời đang trong cơn đau không dứt. Nhưng từ năm 1996 đến 2002, Purdue bắt đầu quảng cáo OxyContin thành thuốc giảm đau phổ thông cho mọi loại bệnh từ thấp khớp, đau lưng, máu lưu thông kém đến đau sau phẫu thuật. Năm 1996, đội ngũ bán hàng của công ty này đã nhắm đến 27.000 bác sĩ, y tá chăm sóc bệnh nhân ung thư.
Tuy nhiên, đến năm 2002, họ nhắm tới 160.000 bác sĩ từ mọi khoa, bao gồm đa khoa, thần kinh, sản khoa, chuyên khoa nắn xương để tiếp thị. Kết quả là, năm 2010, doanh thu từ dòng thuốc này của công ty đã tăng vọt lên thành 3 tỷ USD mỗi năm. Trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2015, các bác sĩ đã kê 51 triệu đơn OxyContin, khiến bệnh nhân bị nghiện thuốc. Nhiều người khác tìm cách mua thuốc “chui”. Trong cùng thời gian, tạp chí nội bộ của Purdue tiếp tục biểu dương các nhân viên bán hàng tiêu biểu, thuyết phục thành công những dược sĩ còn hoài nghi chuyển sang kê đơn OxyContin.
(Kỳ cuối: Thuốc giảm đau gây nghiện, chết người thoát án kiện tụng như thế nào?)