Dùng gỗ rừng trồng trong nước thay sồi, bạch dương... nhập từ Nga

(PLVN) - Mặc dù Nga chưa phải là thị trường quan trọng của Việt Nam, song xung đột Nga - Ukraine khiến nhiều doanh nghiệp gỗ của Việt Nam lo ngại giá gỗ nguyên liệu tăng và nguồn cung đứt gãy.
Việt Nam nhập từ Nga các loại gỗ như thông, sồi, bạch dương

Nguy cơ thiếu hụt nguồn cung

Theo báo cáo vừa được Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) phối hợp với Tổ chức Forest Trends công bố, năm 2021 kim ngạch xuất khẩu (XK) gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này chỉ đạt khoảng 7,3 triệu USD, tương đương 0,05% trong tổng kim ngạch XK gỗ và đồ gỗ của Việt Nam ra thế giới. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu (NK) gỗ từ Nga vào Việt Nam cũng chỉ đạt khoảng 55 triệu USD, tương đương 2% trong tổng kim ngạch NK gỗ nguyên liệu của Việt Nam từ tất cả các nguồn trong cùng năm.

Theo TS Tô Xuân Phúc, chuyên gia Forest Trends, nếu nhìn vào kim ngạch xuất nhập khẩu gỗ của Việt Nam với Nga thì Nga là thị trường rất nhỏ. Tuy nhiên, Nga là nước XK gỗ nguyên liệu lớn và Việt Nam là một quốc gia XK gỗ lớn nhưng lại phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu NK.

“Trung Quốc là thị trường NK gỗ nguyên liệu lớn nhất từ Nga, với lượng nhập vào Trung Quốc chiếm trên dưới 50% tổng lượng gỗ tròn và xẻ XK hàng năm của Nga. Trong đó, một lượng gỗ từ Nga nhập vào Trung Quốc sau đó được XK sang Việt Nam ở dạng sản phẩm gỗ xẻ và veneer (gỗ ván)” - ông Phúc nhận định.

Cũng theo Báo cáo của VIFOREST phối hợp công bố, bình quân mỗi năm Việt Nam nhập trên 70 nghìn m3 gỗ xẻ, gần 200 nghìn m3 veneer từ Trung Quốc. Bạch dương, dương, sồi, thông là các loài chủ đạo trong lượng NK. Năm 2021, veneer từ gỗ bạch dương nhập vào Việt Nam đạt 120,94 nghìn m3, chiếm tới 89% tổng lượng veneer NK từ nguồn này vào Việt Nam trong năm (248,12 nghìn m3).

“Xung đột Nga - Ukraine dẫn đến lượng cung gỗ nguyên liệu từ Nga bị co hẹp hoặc thậm chí mất đi trong tương lai sẽ làm thiếu hụt cung gỗ nguyên liệu trên quy mô toàn cầu, từ đó tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia phải NK gỗ nguyên liệu, bao gồm Việt Nam và đẩy giá gỗ NK tăng cao” - ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch VIFOREST nhận định.

Cơ hội cơ cấu vùng nguyên liệu trong nước

Bà Phan Thị Thu Trang, Công ty TNHH Gỗ An Lạc lo ngại nguồn gỗ nguyên liệu sẽ tăng giá, thậm chí không về được Việt Nam.

“Chúng tôi có 2 lô hàng, cứ nghĩ đã rời cảng rồi nhưng khi chiến sự xảy ra thì nó vẫn nằm ở cảng của Nga, giờ không biết làm sao” - bà Trang chia sẻ.

Chủ tịch HĐQT Công ty CP Woodsland, ông Vũ Hải Bằng đặt vấn đề DN cần bàn với đối tác thay thế các loại gỗ có xuất xứ từ Nga bằng các loại gỗ rừng trồng, như thay thế gỗ sồi bằng gỗ keo. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh XK đồ nội thất.

“Việt Nam có lợi thế là có lượng gỗ từ rừng trồng đang cung ứng khá tốt với sản lượng lớn. Trong tình hình bất ổn như hiện nay, việc duy trì, bảo vệ và phát triển nguồn cung gỗ nội địa cả về lượng và chất sẽ là chỗ dựa tốt cho các DN chế biến gỗ Việt Nam” - ông Bằng nói.

Đồng quan điểm, Chủ tịch VIFOREST Đỗ Xuân Lập chia sẻ, bản thân DN của ông cũng đã thay thế gỗ bạch dương bằng gỗ cao su từ lâu.

“Gỗ từ Nga chủ yếu là gỗ bạch dương với sản phẩm chế biến là tủ bếp, tủ nhà tắm,… Bối cảnh hiện nay mỗi DN cần nghiên cứu về tỷ lệ sử dụng gỗ của Nga khi XK vào Mỹ và châu Âu . Đây cũng là lý do để DN đề nghị khách hàng chuyển sang sử dụng gỗ rừng trồng trong nước thay thế gỗ NK, việc này cũng vừa để giảm chi phí” , Chủ tịch VIFOREST lưu ý.

Để làm được điều này đòi hỏi nỗ lực chung của Chính phủ, cộng đồng DN và các hộ trồng rừng. “Chính phủ có thể đưa ra các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích việc trồng rừng gỗ lớn. Các cơ chế chính sách cũng cần tập trung vào tạo môi trường nhằm thu hút DN chế biến vào đầu tư tại các vùng nguyên liệu rừng trồng. Liên kết giữa DN và các hộ trồng rừng nhằm tạo nguồn gỗ lớn có chất lượng cao, có tiềm năng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất của các hộ…”, ông Hiệp đề xuất.

Đồng thời Việt Nam cần có chiến lược phát triển nguồn gỗ nguyên liệu rừng trồng, trong đó, bao gồm việc đa dạng hóa các loài gỗ rừng trồng trong tương lai nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về các loài sử dụng trong chế biến.

Đọc thêm