Ngôi nhà thân thương của người Việt xưa

(PLVN) - Trong ngôi nhà của người Việt xưa chở che một gia đình, dù nghèo hay giàu, vui hay buồn, nó vẫn là nơi trú ẩn an toàn để sinh tồn và phát triển. Ngôi nhà vừa là linh hồn, vừa là sự sống.
Không gian hình ảnh ngôi nhàViệtĐồng bằng Bắc bộ gợi thương nhớ... (Ảnh: Tuấn Ngọc)

Nhiều thủ tục cầu kỳ để dựng ngôi nhà

“Nhà anh chỉ có một gian/Nửa thì làm bếp nửa toan làm buồng”. Câu ca đó mô tả ngôi nhà của người Việt xưa nhất là ở vùng châu thổ sông Hồng đơn sơ, mộc mạc. Người dân dựng nhà đầu làng, cuối xóm, ven sông, bờ bãi, bên chợ hay chân đồi, núi… đều cần chọn hướng, ngày giờ, năm… Phong tục đó tưởng chừng đơn giản nhưng lại rất cầu kỳ.

“Lấy vợ hiền hòa/Làm nhà hướng nam”. Tập quán này được giải thích bằng các lý do như gió bấc thường mạnh và rét, trong khi gió nồm mùa hè lại đến từ phương nam và đông nam. Ngoài hướng gió, thời tiết thì người xưa cho rằng hướng đông - nam không phải là xấu, còn quay về hướng tây và đông - bắc là xấu.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên cho rằng, xây cất một cái nhà là một sự kiện quan trọng, nhất là đối với người giàu có và khá giả việc kiêng kị, coi ngày tháng, năm sinh… liên quan đến cái nhà rất được họ quan tâm. Hạnh phúc thực sự bình yên của những người ở trong ngôi nhà đó tùy thuộc công sức bỏ ra để loại trừ những uy lực quái ác.

Người xưa luôn tránh cất nhà vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất (năm Hổ, Ngựa và Chó) trong tháng Giêng, tháng 5 và tháng 9; vào những năm Thân, Tý và Thìn (năm Khỉ, Chuột và Rồng) trong những tháng 3, 7 và 11; những năm Hợi, Mão, Mùi (năm Lợn, Mèo và Dê) trong những tháng 2, 6 và 10 và vào những năm Tỵ, Dậu, Sửu ( năm Rắn, Gà và Trâu) trong những tháng 4, 8 và 12.

Rồi năm sinh của chủ nhà cũng ảnh hưởng đến kích thước của cái nhà. Nếu người làm nhà sinh vào hành kim và sao kim, thì phải làm nhà 47 thước nếu muốn làm nhà lớn, hoặc nếu nhỏ hơn thì làm 28 thước, chiều rộng phải là 7 thước 2 tấc (thước dài khoảng 0.40m, được chia thành 10 tấc).

Người xưa quan niệm rằng: “Địa điểm thuận lợi để cất một ngôi nhà phải gần thân con rồng càng tốt, vì tại đó sinh khí sẽ mạnh lên và càng tản ra đến cuối chân rồng thì khí càng yếu dần. Hàm rồng nơi nơi được chuộng nhất… những suối và sông chảy thành đường thẳng, các dòng suối chảy nhanh đều tai hại, vì chúng gây sự ly tán… Ví như một chỗ đất nhô lên phía trước mặt nhà hứa hẹn rằng người con cả trong nhà sẽ làm quan văn; trái lại, một mỏm núi dốc đứng và có cây cối rậm rạp tạo nên dáng một lá cờ tung bay, sẽ quyết định khung hướng binh nghiệp. Một mảnh đất uốn lượn bao giờ cũng là điềm lành đối với con gái. Nếu từ khắp các hướng nhà bị gió lọt qua các ngọn đồi thổi đến thì bệnh tật sẽ tàn hại cả gia đình và người bố sẽ bị cách chức. Nếu các điểm cao bị nhiều khe, lũng cắt khúc, thì bệnh tật chỉ làm hại gia súc mà thôi” (Nguyễn Văn Huyên - Một điều tra về nhà ở tại Đông Dương).

Ngoài địa thế, hướng nhà cũng rất quan trọng. Người xưa cho rằng, người nào xây cất nhà mà cổng vào nhìn ra một con đường hoặc một dòng nước chảy thẳng, sẽ gặp cảnh con cái chết hoặc người vợ vô sinh.

Khi xây dựng nhà, người thợ được đối xử tử tế, cơm thợ làm nhà phải có thức ăn tươm tất không như thợ cày, thợ cấy. Sau mỗi bữa ăn phải có trà, thuốc, thỉnh thoảng phải có rượu thịt thịnh soạn.

Chủ nhà thiết đãi và chăm sóc thợ như vậy vị sợ họ làm phản. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nhất Thanh thì chủ nhà sợ: “Người thợ bí mật đặt vào đầu cột, mộng xà, nơi kín đáo, một mẫu cái bút tre dùng ghi dấu mực trên gỗ, hoặc là một dụng cụ gì khác của họ với lời nguyền hiểm độc. Nhà chủ sẽ bị tai hại làm ăn không mát, có khi đến lụn bại” (Đất lề quê thói).

Khi thợ mộc xong, gia chủ chọn ngày cất nóc. Đây là thời khắc quan trọng nên phải chọn giờ tốt. Nhà có điều kiện còn đốt pháo. Tiếng pháo nổ giòn lúc cất nóc giúp vui cho ngày tưng bừng của chủ nhân. Bà con, bè bạn đến tiếp tay với thợ hoặc sắp xếp giúp… Chủ nhân làm cỗ cúng, thiết đãi thợ và bà con đến mừng.

Không gian ngôi nhà gợi thương nhớ

Nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Gourou đã có quan sát rất tinh tế về một ngôi nhà ở nông thôn Bắc Bộ. Theo ông, một ngôi nhà dễ thương nhất có thể thấy ở vùng châu thổ, vì nó được bố trí xung quanh một cái sân trong, lát gạch cẩn thận và nhìn ra một khu vườn khá rộng kéo đến tận bờ ao, được dùng cho riêng người trong nhà. Trong vườn có cây ăn quả: na, ổi, chanh, lựu, bưởi, đào trồng để lấy hoa, hai cây cau đối xứng với trục ngôi nhà chính, những bụi vối dùng để uống thay chè. Trên mặt ao có bắc một tấm ván dùng làm nơi giặt giũ và rửa chén bát, cũng là nơi tắm rửa của cả nhà. Người ta cũng vo gạo ở đấy. Ở cạnh bờ ao người ta đặt một cái chum bằng sành màu da lươn để đựng tương.

Bên ngoài sân còn có hai đụn rơm và một cái chuồng lợn làm bằng những thanh gỗ… có khi ghép bằng những tấm ván áo quan sau khi bốc mộ để cho lợn chóng lớn. Sân lát gạch nung không tráng men, để phơi thóc và đạp lúa bằng chân.

Dù thời thế đã đổi thay, nhưng ngôi nhà như Pierre Gourou miêu tả vẫn còn hiện hữu nhiều ở xứ Bắc bây giờ, dù có nhiều cải tiến cho hiện đại hơn, nhưng nhiều gia chủ vẫn mê cái cũ, ngôi nhà cũ của ông cha mà gìn giữ, bảo tồn.

Bước vào không gian ngôi nhà xưa có gian chính, đây là nơi đặt bàn thờ tổ tiên và là nơi tiếp khách. Những câu đối viết trên bản gỗ hoặc giấy được treo lên tường “Những nhà khoa hoạn thế phiệt thì thường hai bên sập thờ còn có giá cắm cờ biển, lọng… Như vậy, gian giữa nhà chỉ có một khoảng trống đàng trước đủ để cho con cháu làm lễ cúng bái những ngày giỗ, Tết” (Đất lề quê thói).

Ngôi nhà xưa của người Việt cũng tùy gia cảnh mà sắp xếp, nhà giàu có, quan lại, thì cầu kỳ, ngăn nắp, gia phong, nhà nghèo thì đơn sơ, miễn có chỗ chui ra chui vào, trú ẩn mưa nắng. Nhà nghèo không có sập gụ, tủ chè, thì giường lát, chiếu trơn, đôi tràng kỷ tre, cái bàn độc ở giữa nhà, chút điếu đóm, cơi trầu, tích nước để tiếp khách. Thơ mộng chút nữa thì trông vài bụi hoa như cúc, dâm bụt, rồi cũng làm cái cổng cài then lại, xung quanh nhà trồng cây tre, cây mây, như một hàng rào chắc chắn bảo vệ ngôi nhà, tránh trộm cắp, hay động vật xâm lấn.

Trong cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, nghiên cứu địa lý nhân văn, của nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Gourou nhìn nhận về sinh hoạt của người miền Bắc cho biết: “Bên trong các làng mạc đó, cảnh sắc rất đáng yêu. Một cái ao với một phần mặt nước được các cây thủy sinh xanh rờn lấp lánh che phủ: mặt trời chiếu qua rặng tre vươn lên, dày đặc mà lại rất nhẹ nhàng, làm ánh nắng lúc ẩn, lúc hiện trên mặt nước ao lung linh; một người ngồi tắm trên đầu tấm ván bắc trên mặt ao, đem đến cho bức tranh toàn thể một nét sáng hơn của thân hình con người bóng nhẫy ánh nước…”.

“... Những căn nhà màu xám, những bức vách đất tạo thành một bộ phận của cảnh quan thiên nhiên. Người nông dân đã biết sắp đặt những bờ đầm ao, trồng những cây chuối, cây ăn quả, cây cau một cách hợp lý và tạo ra quanh mình một tổng thể tươi vui đáng yêu. Dù còn nghèo khổ nhưng người nông dân không sống trong sự thô lậu”.

Điều đó có thể thấy người Việt đã biết tìm kiếm niềm vui trong sự khốn khó của mình. Họ vui với cảnh nghèo “ba gian nhà tranh thấp lè tè”, hay “vườn rộng rào thưa khó đuổi gà…”. Một không gian đơn giản, đủ để con người sinh hoạt trong đó an trú và chấp nhận nó. Cuộc sống trông đợi vào nông nghiệp khiến họ chỉ vừa no đủ hoặc bữa đói, bữa no, làm sao dám nghĩ đến sự cao sang. Thôi đành ở vậy, chăm chút xung quanh mình cũng là thú vui ngày rộng tháng dài.

Phạm Đình Hổ viết về căn nhà của gia đình của mình trong Vũ Trung tùy bút rất đẹp và mang phong cách của một ngôi nhà phong lưu: “Nhà trung đường có bảy gian, tọa đông hướng tây, vốn là chính tẩm của đại phu ta ở trước. Phía tây xối nước tiếp theo là nhà khách năm gian, trước mặt trông xuống cái ao vuông. Trong ao thả bạch liên, xung quanh bờ trồng thanh liễu và cam quýt. Cách nhà khách năm sáu bước, lại chắn ngang một rặng rào trúc, từ phía nam nhà trung đường đến bờ ao phía tây; phía bắc thì dựng một cái bình phong vòng quanh che khuất đi. Phía đông ao giáp sân nhà khách, có trồng năm cây hoa nhài, hoa hồng, hoa ngâu, hoa mẫu đơn. Trông xa ra ngoài cánh đồng, cách hàng rào tre, thấp thoáng có một cái quán trơ trọi…

Tối đến, lúc mặt trăng mới mọc, đi tản bộ quanh bờ ao, ngâm nga mấy câu Đường thi cũng thú, hoặc tựa gốc dừa, cành hoa phất phơ trước mặt, ngồi bẻ bông tước lá thử chơi. Khi lẩn thẩn trở về nhà khách thì bóng nguyệt hương hoa vẫn còn phảng phất trên án thư, tràng kỷ. Ta thức đến gà gáy mới đi ngủ”.

Ngôi nhà là điểm tựa của gia đình, người Việt rất coi trọng nhà cửa, “an cư lạc nghiệp”. Nên việc xây nhà cũng quan trọng như kết hôn, sinh con, ma chay… Trong nếp nhà đó, nhiều gia đình sinh hoạt qua nhiều thế hệ và có nhiều gia đình cứ quẩn quanh ngôi nhà cũ mà không bán đi vì họ cho rằng ngôi nhà có phước lớn, mang nhiều may mắn cho gia đình.

Nhớ về ngôi nhà cũ, ta lại bồi hồi nhớ cha mẹ, ông bà, anh em ruột thịt có một thời gian dài đã nương tựa lẫn nhau qua một hành trình dài dựng xây.

Đọc thêm