Bài thơ mượn cảnh để nói lên những suy nghĩ trong lòng, lấy tình “trực chỉ chân tâm” nhằm khai phóng nhân sinh. Thiền sư sử dụng hai hiện tượng thiên nhiên là mùa xuân và hoa mai để nói ra triết lý của việc tu hành, giác ngộ Phật học.
Một bậc cao tăng đức độ
Thiền sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường (1052 – 1096) cha là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dưới hai triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128). Ông là người đã được triều đình cử làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộ Việt Nam đi sang Trung Quốc vào năm 1073 để báo tin vua Lý Thánh Tông mất.
Thiếu thời, vua Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Lão, Phật nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
Khoảng niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084), ông không lựa chọn trở thành một cận thần của nhà vua mà tự chọn lấy con đường mình thích là rèn luyện kiến thức Phật giáo và Nho giáo. Sư dâng biểu xin xuất gia, theo học với Thiền sư Quảng Trí, rồi kế thừa tâm ấn của ngài ở chùa quán Đính, núi Không Lộ. Thiền sư Mãn Giác đi vân du khắp nơi, trở thành một vị thiền sư tên tuổi, có rất đông học trò, được tôn là người tiêu biểu cho thế hệ thứ tám, dòng Thiền Vô Ngôn Thông.
Sau, Sư xem Đại tạng kinh được Trí vô sư, là bậc lãnh tụ pháp môn trong một thời. Vua và bà Hoàng thái hậu Cảm Linh Nhân (Ỷ Lan) đang để tâm học Thiền, bèn dựng ngôi chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng hiệu là Giáo Nguyên, thỉnh Sư trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Đối với Sư chẳng dám gọi danh thường, chỉ xưng là Trưởng lão.
Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, thiền sư Mãn Giác chỉ để lại một tác phẩm duy nhất, nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đến nay. Đó là bài kệ có tính cách di chúc viết dặn lại học trò trước lúc mất, một bài thơ đã gây cho rất nhiều thế hệ bạn đọc trong gần chín thế kỷ qua những cảm xúc trái ngược, và cho đến nay, sự tranh luận vẫn chưa phải đã ngã ngũ.
Cây mai trắng tượng trưng cho người quân tử, khí phách kiên cường, tâm hồn thanh cao. |
Triết lý của việc tu hành
Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ, sau này được biết dưới tên “Nhất chi mai” hay “Cáo tật thị chúng”:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiên quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
Ngô Tất Tố dịch rằng:
“Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở nhành mai”
Nói xong Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45 tuổi. Sau lễ hoả táng, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, thuỵ hiệu là Mãn Giác.
Bài thơ có sáu câu diễn tả cảnh vô thường của vạn vật cũng như cuộc đời của con người. Tuy nhiên, bên cạnh cái biến hóa vô thường đó, luôn có cái gọi là bản lai chân thật năm ngoài vô thường, nó không đến, không đi, không sinh, không diệt.
Dù còn nhiều cách hiểu khác nhau về bài thơ trên của Thiền sư Mãn Giác, Thượng tọa Thích Thanh Điện và TS. Phạm Thị Thanh Hương cho rằng: Mở đầu bài thơ, tác giả dẫn đắt người đọc vào một thực cảnh với những cái còn, cái mất theo thời vận.
“Xuân qua trăm hoa rụng” nghĩa là khi xuân qua đi, khi mà thời vận cho trăm hoa nở không còn nữa thì hoa sẽ rụng, cũng như con người, khi tuổi xuân qua đi thì tuổi già đến, từ tươi trẻ căng tràn sức sông trở nên nhăn nheo, già nua. Còn “Xuân tới trăm hoa cười” có nghĩa là khi mùa xuân đến thì trăm hoa đua nở, con người khi thời xuân sắc thì khỏe mạnh. Tất cả đó là lẽ thường.
“Trước mắt việc đi mãi”, trước mắt chúng ta vạn vật cứ đến rồi đi, cứ hợp rồi tan theo cái trục luân hồi sinh tử mãi mãi. Đó là quy luật thường tình của vạn vật. Đó là vô thường. Nhưng cái sự khác biệt về vô thường ở con người và vạn vật ở chỗ, “Trên đầu già đến rồi”, khi chúng ta trải qua các sự việc ở trên đời, biết rõ hay dở, trái ngang… thì lúc đó cái còn lại của chúng ta là cái già yếu, sinh tử.
Khi mà thời gian qua đi, ngày tháng qua đi, xuân đến rồi xuân đi thì cái còn lại ở chúng ta là tóc bạc trên đầu. Đó có thể là những hiểu biết, những kinh nghiệm sống, những tri thức. Do vậy, nếu ta không tu luyện, không giác ngộ thì bản thân mỗi người sẽ cứ trôi lăn không biết về đâu, không biết đâu là bến bờ.
Vì vậy, ở hai câu cuối, thiền nhân khẳng định: “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước nở nhành mai”, cành mai khi xuân đến nó nảy chồi, nở hoa, khi xuân qua đi thì hoa rụng hết. Hoa rụng không có nghĩa là hết mà còn cành mai, gốc mai thì khi đủ duyên nó sẽ tiếp tục nẩy chồi, nở hoa.
Bài thơ mang hai thông điệp chính: một là, nêu lên cái sự vô thường, phơi bầy cái sự vô thường trước hết ở cây cỏ hoa lá trong tự nhiên, rồi đến cái thân xác con người; hai là, bên cạnh cái vô thường luôn có cái thường hằng bất biến không đến, không đi và không mất, đó là nơi an lạc bình yên.
Trong cuộc đời cái mất, cái được chỉ là mộng ảo. Bài thơ muốn gửi tới người đọc một thông điệp: Cái gì có tướng thường là thay đổi, cái đang biết - cái không - vô ngã là cái thường còn, không sinh, không diệt.
Lâu nay người ta sợ hãi là sợ cái có có - không không đối đãi, thì đây là vật chứng, là hiển nhiên của sinh diệt mà cũng là bất diệt. Cái giả hợp tất chịu đổi thay: còn trẻ răng trắng má hồng, lúc tuổi già răng long tóc bạc. Nhưng trong chỗ diệt diệt sinh sinh ấy có một thứ vượt ra ngoài sinh tử, và một lúc nào nhận diện được nhành mai trước sân thì tức là đang sống, đang tồn tại với Phật tánh vĩnh cửu chân như của chính mình. Tìm kiếm Phật ở bên ngoài thì cũng giống như cá chép tranh nhau vượt Vũ Môn, muôn đời làm sao hóa rồng được?!
Điều mà chúng ta cảm nhận được qua bài kệ - bài thơ là: bài kệ rất đơn giản nhưng lại nói được rằng "vũ trụ vốn có những quy luật, con người và sự vật luôn luôn phải tuân theo, thế nhưng vẫn có những điều huyền diệu, thần kỳ xảy ra, vượt ra ngoài cái khuôn khổ bình thường có quy luật của vũ trụ".
(Trí Bửu – Thuvienhoasen.org)