Bảo tàng Lê Quang Vịnh soi dấu chân Côn Đảo

(PLO) - Đằng sau cánh cổng của bảo tàng số 58/24B đường Nguyễn Phúc Nguyên trong lòng TP.Huế là nơi lưu giữ lại vô vàn ký ức một thời hào hùng trên Côn Đảo của người tử tù cách mạng Lê Quang Vịnh. 
Không chỉ được chiêm ngưỡng những kỷ vật tại phòng truyền thống, chúng tôi còn được nghe người tử tù năm xưa kể lại rất nhiều câu chuyện mà sử sách chỉ nói được phần nào.
Từ kỷ vật…
Năm 2004, Phó trưởng ban Dân vận Trung ương Đảng, Trưởng ban Tôn giáo Trung ương Lê Quang Vịnh về quê (TP. Huế) an dưỡng tuổi già. Tại đây ông được vợ  là bà Trần Thị Kim Khánh cùng hai người con là Lê Quang Hạnh Phúc và Lê Quang Tự Do, biến tầng trệt nhà ông thành bảo tàng mang tên Lê Quang Vịnh như bây giờ.
Ít ai biết rằng, cái tên Lê Quang Vịnh từng làm khiếp sợ bọn Mỹ - Ngụy trên Côn Đảo một thời. Ông cũng chính là người từng bị tòa Sài Gòn tuyên án tử hình (tháng 8/1962) rồi từ đấy bị đọa đày 14 năm ròng rã, trong đó 8 năm bị còng chân đến bại liệt. Nói về bảo tàng, ông Lê Quang Vịnh vẫn xem đó là căn phòng trưng bày được xây cất lên từ tình yêu của vợ con, là “ngôi đền” gìn giữ lòng trung trinh của người tù cách mạng trong xiềng xích.
Gia đình hạnh phúc của cự tù Lê Quang Vịnh
Gia đình hạnh phúc của cự tù Lê Quang Vịnh 
Không gian dành cho sinh hoạt gia đình chỉ chiếm một phần rất nhỏ, phần lớn diện tích ngôi nhà và vườn dành cho việc trưng bày các kỷ vật, bia tượng... Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng và kính phục trước câu chuyện về cuộc đời của người tử tù Côn Đảo nay đã 80 tuổi được kể qua các di vật. 
Đó là chiếc giỏ mây được những người tù khổ sai đan tặng nhân dịp nhà tù cho mẹ vào thăm nuôi 6 tiếng ngắn ngủi, giờ đặt trong tủ kính. Chiếc giỏ nhỏ chứa đựng tình cảm anh em, nắp giỏ có hai chữ “Côn Đảo” trên màu đỏ, dưới xanh, giữa đính 1 hạt đậu màu vàng với ngụ ý là lá cờ giải phóng, là quyết tâm nguyện hiến dâng cho tới chết vì sự thống nhất đất nước. 
Mẹ ông đã mang chiếc giỏ mây ấy về đất liền, cẩn trọng đặt lên bàn thờ. Ngày giải phóng về, bà trao lại cho ông mà nước mắt hai mẹ con không ngừng chảy. Với ông, nó là báu vật kháng chiến, là câu chuyện thiêng liêng cảm động khắc cốt ghi tâm.
Tại đây còn trưng bày “Hòn đá mạng người” Côn Lôn. Giới thiệu về nó, ông kể: “Hồi ấy chúng hành hạ dữ lắm, 5 người khiêng không xuể, chúng bắn bỏ một người cho mình sợ, còn 4 người cũng lo mà khiêng”. Ông còn giải thích: “Hòn đá ở đâu chẳng có, nhưng hòn đá Côn Lôn trở thành chứng tích một thời máu tắm đá  nên nó là di vật quý giá của đời tôi”.
Bảo tàng có những kỷ vật đặc biệt là chiếc còng gắn với tử tù Vịnh đến 8 năm; một bức tranh thêu của người bạn tù Mười Còm, thêu giấu giếm hình ảnh Bác Hồ để tặng ông. Là chiếc gậy đầu rồng làm bằng gỗ găng chỉ có ở rừng Côn Đảo mà Huyện ủy Côn Đảo  đã tặng ông; là hình ảnh trong bộ phim tài liệu “Hòn đảo địa ngục”. 
Lê Quang Vịnh (người thứ 3 từ trái sang) bị kết án tử hình được báo chí đăng tải.
 Lê Quang Vịnh (người thứ 3 từ trái sang) bị kết án tử hình được báo chí đăng tải.
Bức tranh Đồng chí Vịnh tử tù của nữ họa sĩ người Nga Valeria Simirnova in trên bìa báo Smiena (Thế Giới Trẻ) năm 1978 vẽ gương mặt ông Vịnh gầy ốm vẫn tươi cười, viền quanh là dáng một thiếu nữ Huế mặc áo dài màu đỏ, cầm chiếc nón bài thơ hát mừng chiến thắng tựa dáng hình đất nước Việt Nam. Sau này, bức tranh được tạc thành phù điêu đặt trong vườn nhà ông. 
Và hàng trăm hiện vật khác, mỗi hiện vật là một phiên tòa đanh thép đối với lương tri nhân loại trong cuộc chiến tranh Mỹ – Việt đã qua.
Những câu chuyện kỷ vật chưa nói hết
Từ giới thiệu kỷ vật, ông nhớ lại: Chuyện áp đặt hô khẩu hiệu, hát Quốc ca kéo dài không phải ngày qua ngày, tháng qua tháng mà năm này qua năm khác. Rồi chúng kết tội “Vịnh là người cầm đầu xúi giục tù nhân đừng chào cờ, đừng hô”. 
Bị sử dụng nhục hình, đau thừa sống thiếu chết nhưng ông vẫn khảng khái: “Tôi không thể chào cờ được, tôi cũng không thể hát được bởi vì người trí thức là người phải biết trọng danh dự và không thể làm những việc dối mình, dối người. Tôi yêu Cụ Hồ có khi còn hơn yêu cha tôi. Tôi không thể chào lá cờ chống lại dân tộc tôi, lá cờ được kéo lên từ máu của nhân dân tôi”, ông nói xong, chúng xông vào đánh ông tới tấp. 
Trong phút đớn đau do đòn roi ấy ông đã cắn lưỡi, máu phun ra đỏ ướt áo bọn sai nha và một miếng lưỡi văng ra ngoài. Khiếp đảm trước chí khí của người tù, chúng hốt hoảng đưa bác sỹ vào khâu lưỡi rồi đưa ông vào hầm cùm chân suốt 1 năm không đánh đập. Đó là kỷ niệm được ông viết lại trong các tập sách “Đường đi”, “Sóng Côn Đảo”… lưu trữ tại bảo tàng.
Cựu tù kể lại những tháng năm bị giam cầm tại Côn Đảo.
 Cựu tù kể lại những tháng năm bị giam cầm tại Côn Đảo.
Dịp Tết Mậu Thân, Trung ương Chính phủ Ngụy đã đưa ông và ba anh em khác là Lê Minh Châu, Lê Hồng Tư, Trương Thanh Danh vào Sài Gòn. Chúng ra điều kiện chỉ cần hô khẩu hiệu “Đả đảo Hồ Chí Minh” là chúng sẽ thả về Mặt trận của Việt Cộng. Anh em ôm nhau mà nức nở khóc. Những lời dụ dỗ, đòn roi đớn đau nhưng bốn anh em vẫn nhủ nhau: “Về mà không còn khí tiết thì thà chết chứ về làm chi”. 
Vừa lúc đó, quân ta tiến vào Sài Gòn lần 3, bốn anh em được đưa về lại hầm đá Côn Đảo giam thêm 9 tháng. Trong gian phòng vẫn còn treo giữ ảnh của mười một anh em trong Tiểu đội Quyết tử quân.
Liên quan tới bia đá ngoài vườn nhà ông Lê Quang Vịnh cũng là một câu chuyện xúc động ngày 1/5/1975, sau 8 năm bị còng, đôi chân đã bại, bỗng ông nghe từ ngoài cửa hầm có người gọi: “Vịnh, Vịnh ơi, có phải Vịnh đó không?”. Đã lâu không có ai gọi bằng giọng thân mật, trong lao toàn bị chúng xưng tao, hô mày, thằng. Ông cố rướn cổ kêu : “Vịnh đây, nhưng Vịnh đang bị còng”.
Khóa cửa đã mở, một người tay cầm súng lục, áo mang băng đỏ bước vào, hô lớn : “Giải phóng rồi Vịnh ơi, giải phóng rồi!”. Anh bạn mừng rỡ chạy tới, ông Vịnh khập khiễng bước ra, đụng nhau ở bục cửa nước mắt giàn giụa chảy và ngất lịm vì kiệt sức. Tỉnh dậy, nước mắt không ngớt rơi, bạn đỡ dậy và đưa tới tổ chức. 
Đến nơi, ông ngồi bệt xuống nền đất, rút tờ giấy kẻ ngang học trò và viết bài hát “Chào tự do”. Vừa viết, nước mắt không kìm lại được, cứ thế tuôn nhòe nét chữ. Câu chuyện đẹp nhất và cũng là đau đớn nhất cuộc đời ông bỗng ca lên thành nốt nhạc, khúc hát.
Hiện nay, bài hát “Chào tự do” được đặt làm bia dựng ngay trước hiên nhà. Kể tới đây, nước mắt của ông chực trào có lẽ vì lúc kể, ông được sống lại giờ phút hạnh phúc đó./.

Đọc thêm