Ngày ấy, ông còn là anh đoàn viên Thản làm ruộng khỏe như vâm, thích giúp đỡ mọi người lại đàn hay hát giỏi nhất làng. Chẳng thế mà tuy Thản nghèo khổ bởi mồ côi cha mẹ từ sớm nhưng vẫn có nhiều cô gái để ý đến Thản. Có điều là chẳng cô gái nào được toại nguyện cả, bởi vì Thản đã có người thương rồi. Cô Ngấn da trắng, tóc dài, mắt huyền môi thắm, đẹp nổi tiếng làng trong xã ngoài mà đi với Thản thì quả là trai tài, gái sắc. Biết vậy, các cô gái chẳng dám ganh tị, họ còn quay lại vun vén cho Thản và Ngấn.
Tấm lòng người quê vốn rộng lượng, chỉ có điều ai cũng nghĩ nhưng không muốn nói ra rằng có thể Thản và Ngấn chẳng bao giờ thành đôi được. Trở ngại giữa đôi trai gái ấy sừng sững như cây cột lim, không dễ gì lay chuyển nổi, đó là ông chủ tịch xã, bố Ngấn.
Vốn gia trưởng, độc đoán lại có quyền "hét ra lửa", chỉ nghe phong thanh chuyện của con gái thôi, ông chủ tịch đã giận cành hông rồi. Cái thằng nghèo xơ nghèo xác mà dám chòi cao đứa con gái xinh đẹp sống trong nhà ngói năm gian có sập gụ, điện thờ sao? Giận lắm nhưng vốn thâm nho, ông chủ tịch không nói ra, nói vào gì cả. Giống như con diều hâu im lìm vờn lượn trên không, chỉ chờ cơ hội là lao xuống, xé xác chú gà khốn khổ.
Và, mọi chuyện bắt đầu khi Thản nảy ra cái ý nghĩ quái lạ ấy. Năm nào cũng vậy, vào những ngày rục rịch vụ đông - xuân, người làng lại cho hàng đoàn xe cải tiến, cơm nắm cơm gói, đi cách đêm cách ngày sang tận Kiến An, Hải Dương để mua bèo. Có năm phải mua đến mấy bận mà rốt cuộc vẫn không thả được sào nào, bao nhiêu công sức thành công cốc. Người ta cho rằng đất ở đây là đất chua mặn, bèo nước ngọt không chịu được, có sống cũng chỉ là hú họa.
Thản không nghĩ vậy! Lúc vớt một nắm bèo dại tặm rặm trong bàn tay, Thản bỗng nảy ra ý định táo bạo: tại sao không thử nuôi bèo giống thích nghi được với đồng đất này, có thể sống vụ này qua vụ khác? Khi Thản trình bày ý định của mình lên Ủy ban để xin kinh phí, có lẽ điều làm mọi người ngạc nhiên nhất là ông chủ tịch lại đồng ý. Thản mừng hơn bắt được vàng. Biết đâu, từ chuyện này, ông chủ tịch sẽ chấp nhận cho Thản và Ngấn yêu nhau. Thản đâu biết rằng khi đặt bút ký duyệt, ánh mắt ông chủ tịch đã lóe lên thứ ánh sáng kỳ lạ lắm. Ngấn cũng rất mừng trước thay đổi đột ngột của bố mình, nhưng cô không phải không lo lắng. Lúc gặp nhau ở chỗ hẹn, cô bồng bột níu lấy tay Thản:
- Sinh mệnh hai đứa mình đã đặt cả vào vụ bèo này rồi, anh ạ!
Thản không nói gì nhưng nhìn vào mắt Thản, Ngấn biết rằng anh sẽ tạo được bèo giống bằng mọi giá.
Trước tiên, Thản bỏ ra một tuần cật lực đào cái ao khá rộng sau nhà, lấy chỗ thả bèo. Thế rồi Thản chạy đôn chạy đáo hết lên huyện lại sang những xã lân cận mua thuốc trừ sâu và học hỏi kinh nghiệm của những người đã từng nuôi bèo giống. Suốt ngày, Thản lăn lưng ngoài ao, nâng niu từng cánh bèo như thể chăm sóc người thân của mình. Dần dần, so với những bèo tổ ong, bèo tai mèo, bèo tấm, bèo hoa dâu dại khác, những cánh bèo Thản nuôi đã mượt mà thấy rõ. Mọi chuyện đang bắt đầu suôn sẻ thì cái đêm hãi hùng đã xảy ra cho Thản.
Đêm ấy, một trận mưa rào ào đến, nước tràn bờ. Xen lẫn trong tiếng mưa rơi sàn sạt trên những cánh bèo, Thản nghe có tiếng lội oàm oạp trong ao của mình. Lo có con gì đến phá bèo, Thản khoác áo mưa, thắp vội ngọn đèn dầu định xuống thăm ao. Vừa ra đến cửa, bỗng có một bàn tay bịt lấy miệng Thản. Bàn tay ấm và mềm mại đó là của Ngấn. Cô thì thào bên tai Thản, giọng hốt hoảng:
- Anh đừng ra! Bố em đang cho người phá đám bèo ngoài ấy.
Thản lạnh người. Phá đám bèo ấy có khác gì phá chính cuộc đời của anh đâu! Thản khẽ gỡ tay Ngấn, quả quyết:
- Anh phải ra. Em chẳng nói đó như là sinh mệnh của bọn mình.
Bước sấp bước ngửa đến gần ao thì gió thổi tắt ngọn đèn. Thản còn chưa kịp làm quen với bóng tối bỗng có hai, ba người lao vào Thản. Chúng quật anh xuống đất rồi một trận mưa đấm đá bắt đầu giáng xuống. Thản không kêu được, chỉ co người cố tránh đòn thôi. Ngấn xô đến, phủ thân mình mảnh dẻ lên người Thản. Giọng nói của cô ngắt quãng cùng với tiếng nức nở:
- Em xin các anh... đừng đánh nữa...
Hóa ra là mấy người anh họ của Ngấn. Một đứa cúi xuống bên Thản, phả hơi rượu khê nồng vào mặt anh:
- Mày đã không nuôi được bèo giống, làm tốn tiền của xã. Bây giờ, hoặc là mày cút khỏi chốn này, hoặc là mày làm chó mà trả nợ cho xã. Nghe chưa?
Hắn đứng dậy, ngửa mặt cười hềnh hệch:
- Đũa mốc chòi mâm son. Ngữ mày mà dám sánh với cành vàng lá ngọc của ông chủ tịch sao?
Hắn chợt thay đổi nét mặt quay sang dịu dàng với Ngấn:
- Em gái, còn gì thì nói nốt với nó đi. Rồi từ bây giờ đừng bao giờ gặp nó nữa.
Mấy thằng anh Ngấn bỏ ra rặng mía đứng đợi. Thản vẫn co quắp dưới đất nhưng anh cảm thấy nước mắt Ngấn rơi trên mặt mình bỏng rát. Cô ghé sát tai Thản, nghẹn ngào:
- Hãy cố quên em đi. Còn em... em sẽ yêu anh mãi mãi.
Cô vùng đứng dậy, bỏ chạy vào trong màn mưa giăng kín. Thản không làm gì để ngăn cô lại được, những vết đòn vẫn ê ẩm trong xương cốt anh. Lâu lắm, Thản mới nén đau gượng đứng dậy được. Anh lảo đảo bước ra cái ao bèo. Những cánh bèo mơn mởn lúc nào giờ đã rách tan, trôi lòa xòa khắp mặt ao. Tự dưng Thản chợt nghĩ rằng thân anh cũng chỉ như những cánh bèo xơ xác ấy thôi. Anh có còn lại được gì đâu...
Một lúc sau, dân làng hốt hoảng khi thấy có ngọn lửa bốc lên từ nhà Thản. Họ hò nhau mang nước, chuyển cát đến chữa cháy. Chẳng có ai nhìn thấy Thản đang lầm lũi đi về phía bến đò. Trong tâm trí Thản, một ngọn lửa khác đang bùng lên, thiêu cháy nốt những ước mơ cuối cùng của anh...
Người đàn ông chợt trở về thực tại bởi tiếng chó sủa ngay dưới chân. Ông giật mình kinh ngạc khi nhận ra bàn chân đã đưa ông đi theo tiềm thức. Ông đang đứng trước cửa nhà Ngấn. Lúc này, trong tâm trí ông chòng chành hai miền ký ức. Một bên là hình ảnh cô Ngấn xinh đẹp thuở nào, còn bên kia là những người anh của Ngấn, hung dữ như bầy hổ đói. Cứ dùng dằng nửa muốn đi nửa muốn ở như vậy, cho đến lúc cánh cửa trước mặt ông mở ra, một người đàn bà với cây đèn măng sông trong tay xuất hiện.
Ông rụng rời chân tay, tiếng thốt rung khẽ qua đôi môi mím chặt: "Ngấn!" Vẫn là những đường nét mảnh dẻ của Ngấn thuở nào. Mái tóc Ngấn vẫn dài và óng ả, chỉ có đôi mắt là trũng sâu, như mệt mỏi trong sự chờ đợi. Bà cũng đã nhận ra ông. Cây đèn măng sông rơi xuống, vỡ tan dưới đất. Bà chạy lao đến, muốn ngã vào vòng tay rắn chắc của ông như ngày xưa. Rồi dường như cảm thấy không còn tuổi để làm việc ấy, bà chợt dừng lại cách ông mấy bước. ánh mắt bà chà xát trên khuôn mặt phong sương của ông, giọng nói thì rung lên:
- Ông đã về đấy ư?
Câu hỏi thật nhẹ và gọn. Dường như câu nói ấy đã ngự trị trên môi bà bao năm qua, chỉ chờ đến lúc này là bật ra thôi. Ông biết rằng bà hỏi vậy thôi chứ đâu cần trả lời, nhưng vẫn nhẹ nhàng:
- Nửa đời lưu lạc rồi! Xuân này muốn về nhìn lại quê hương một lần rồi chết cũng yên lòng.
Bà rưng rưng nhìn ông, lòng quặn đau khi thấy ông già đi nhiều quá. Chắc rằng ông đã phải vất vả lắm mới tồn tại được cho đến hôm nay. Nhưng bà ở lại cũng có sung sướng gì đâu. Thời gian, số phận đã cướp mất tuổi xuân của bà trong sự mòn mỏi đợi chờ. Ngày ấy, bà không ngờ ông bỏ đi nhanh như thế. Nếu biết vậy, bà sẵn sàng gạt phăng tất cả để theo ông, miễn là có nhau thôi.
Ông bà cứ đứng như thế mà ngắm nhau. Có biết bao điều muốn nói nhưng cứ nghẹn lại trong cổ họng, không thể thốt thành lời. Lâu lắm, bà mới ngượng ngùng phá tan không khí im lặng:
- Ông vào nhà đi. Khuya nay tôi sẽ mời ông ăn bánh chưng. Chắc lâu rồi, ông đã quên hương vị bánh quê hương.
Bấy giờ ông mới để ý đến nồi bánh chưng đang sôi ùng ục ở góc vườn. Một cảm giác ấm áp lan tỏa trong ông. Nhưng ông như chợt nhớ ra điều gì:
- Thế còn, bố và...
Bà cắt ngang lời ông, giọng nói có gì đó hờn trách:
- Bố mất lâu rồi. Còn chồng ư?... Tôi chẳng thể lấy ai.
Nghe bà nói, ông có cảm giác bàng hoàng. Ông biết bà là người trọn tình vẹn nghĩa nhưng bà ở vậy đến giờ thì quả là điều ông không ngờ tới. Ông xót xa nhìn bà. Tự nhiên ông có cảm giác những khổ đau của mình thật nhỏ bé so với những gì bà phải chịu đựng bao năm qua. Thấy ông cứ đứng ngẩn ra, bà chợt thấy thương ông quá. Giọng bà chùng hẳn xuống:
- Hay là ông cứ về nhà đi. Ngày mai tôi sẽ mang bánh sang và dọn dẹp cho ông luôn.
Ông nhăn trán suy nghĩ. Ông chưa thực hiểu câu nói của bà:
- Về nhà? Tôi còn nhà ư?
Ánh mắt bà bừng sáng long lanh:
- Tôi đã xây căn nhà trên nền đất cũ của ông. Mỗi mùa xuân về, tôi lại thắp sáng trưng đèn đóm bởi tôi biết thế nào rồi ông cũng về.
Bà ngừng lời, quan sát vẻ sững sờ trên gương mặt ông rồi tiếp:
- Ông đừng lo, cũng là nhờ công sức của ông thôi. Sau cái ngày ấy, tôi đã cùng anh chị em đoàn viên gắng làm nốt công việc còn dang dở. Bây giờ làng mình đã thành nơi phân phối giống bèo rồi. Xây căn nhà cho ông mới chỉ mất một phần nhỏ từ nguồn lợi đó.
Ông chợt hiểu tất cả. Một cái gì đó như là niềm hạnh phúc đã không có từ bao năm nay, ùa vào tâm hồn ông. Ông mạnh dạn nắm lấy bàn tay nhỏ bé của bà:
- Tôi chưa về nhà đâu. Bà cho tôi ở lại trông bánh chưng cùng bà.
Thế là đêm ấy, bên nồi bánh chưng hắt ánh lửa hồng ấm áp, có hai người không còn trẻ nữa, ngồi sát bên nhau. Ánh lửa soi rõ trên khuôn mặt họ nét hồng hào, cái ngượng ngùng của thuở còn đôi tám. Và, đâu đó trong không gian đồng quê tĩnh lặng, mùa xuân đã trở về.