Có một trái tim “thần đèn” còn mãi…

(PLVN) - Dù quê hương ông là đất nước Thuỵ Sĩ giàu có và xinh đẹp, dù tốt nghiệp trường Y Paris và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới nhưng ông vẫn khăn gói xuống tàu đi đến một miền đất nghèo xa lạ. 

Ông nói: “Tôi mãi mãi là một công dân Pháp, nhưng tôi yêu Việt Nam và sẽ phụng sự tính mạng và cuộc đời tôi cho họ”…. Ngày ông mất năm 1943, người dân Nha Trang bỏ hết công ăn việc làm để lo hậu sự, như cha mẹ mình mất vậy…

Bác sĩ Alexandre Yersin, tên ông được lấy đặt cho đường phố Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang
Bác sĩ Alexandre Yersin, tên ông được lấy đặt cho  đường phố  Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang 

“Đời không đi thì còn gì là đời”

Dịch hạch là căn bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người, có thời điểm làm giảm dân số toàn cầu cả trăm triệu người. Chính bác sĩ Yersin là người đầu tiên tìm ra vi khuẩn này và các nhà khoa học sau này đã khống chế nó hoàn toàn, nên cả thế giới rất biết ơn ông, đặt tên vi khuẩn dịch hạch là Yersinia. Ông là bác sĩ Alexandre Yersin, người Thụy Sĩ gốc Pháp. Ông sinh năm 1863 tại Thụy Sĩ và mất năm 1943 tại Nha Trang.

Điều thú vị là, bác sĩ Yersin dành cả cuộc đời gắn bó với 2 chữ Việt Nam. Người dân khắp thế giới yêu quý ông, nhất là người HongKong, nơi ông đã giúp hàng triệu người thoát khỏi dịch cúm gà. Úc từng mời ông sang thành lập viện Pasteur cho họ nhưng ông đã từ chối. Nhiều nước tìm mọi cách mời ông đến làm việc với điều kiện làm việc và bổng lộc hậu hĩnh. Nhưng ông vẫn một mực quay về dải đất hình chữ S mà ông trót yêu thương.

Tốt nghiệp y khoa, Yersin và thầy hướng dẫn của mình là giáo sư Roux phát minh ra vắc xin bạch hầu. Thành tựu của ông khiến thiên tài Louis Pasteur chú ý và được nhận vào làm ở Viện Pasteur Paris danh giá. Nhưng máu thám hiểm trong người khiến Yersin quyết chí xin nghỉ việc để đi làm thuỷ thủ tàu viễn dương “dù chưa có kinh nghiệm đi biển bao giờ”. Ông nói “Đời mà không đi, thì còn gì là đời”... 

Các lần đi thám hiểm và quay lại Pháp, ông đều được Louis Pasteur “mời ăn tối và nghe báo cáo”, “thấy thú vị trước các thông tin mới mẻ do Yersin kể”, Pasteur yêu cầu ông hãy làm gì thì làm cho trọn vẹn để “vang danh thiên hạ, giúp nhân loại”. Vâng lời thầy, Yersin xách đồ đạc lên tàu vượt ngàn hải lý, mặc cho gió bão khôn lường…

Sang Việt Nam, ông làm bác sĩ trên tàu giữa Sài Gòn, Manila, Hải Phòng rồi sau đó định cư ở Nha Trang. Sau một lần tàu cập bến và ông phải lòng với cảnh sắc nơi đây. Không những thế, ông cũng đo được trong không khí hàm lượng i-ốt và ion có lợi ở Nha Trang là cao nhất thế giới, tốt cho sức khoẻ.

Đầu thế kỷ 20, ông tham gia hội đồng sáng lập và là hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Y Khoa Đông Dương (nay là Y Hà Nội), xây dựng toàn bộ giáo trình sơ khởi và nhận thức y đức cho các thế hệ bác sĩ, quy hoạch các bệnh viện ở các tỉnh, thành khắp Việt Nam theo khoảng cách địa lý để “ai bị bệnh cũng có chỗ gần nhất mà đến trị kịp thời”. 

Nhưng Hà Nội cũng chỉ có thể giữ chân ông được hai năm. Sau khi “khởi nghiệp” xong ĐH Y Hà Nội, ông quay trở lại Nha Trang, thực hiện chuỗi những ngày làm khoa học và thám hiểm khắp núi rừng Đông Dương.

Ông là người đã tìm ra cao nguyên Lang Biang và quy hoạch TP Đà Lạt, xây dựng Viện Pasteur Đà Lạt và góp phần phát triển mạnh hơn cho Viện Pasteur Sài Gòn. Trại ngựa nuôi lấy huyết thanh sản xuất vắc xin của ông nằm ở suối Dầu là trại ngựa thuốc lớn nhất châu Á khi đó. Ông còn cho trồng cây ký ninh để trị bệnh sốt rét. Ông mong muốn Nha Trang là trung tâm sản xuất vắc xin cho cả châu Á.

Yêu thương Việt Nam nhiều đến thế…

Ngoài y học, ông còn góp công lớn vào phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, thám hiểm, khí tượng ở Việt Nam. Bác sĩ Yersin là người thực nghiệm nhiều giống cây cao su, ca cao, cà phê (thậm chí ông cho thử nghiệm cây điều từ Brazil và tiêu đen từ Ấn Độ ở nông trại của mình nhưng lúc đó chưa thành công). Và bây giờ chúng ta đã có hàng tỷ đô la xuất khẩu từ các nông sản này. 

Ông mang nhiều giống cây ôn đới trồng ở khu vực Đà Lạt vừa khám phá, như cà rốt, súp lơ, su su, lay-ơn, cẩm tú cầu, xà lách, cà chua... (hầu như tất cả các loại rau củ mang tiếng Pháp). Ông còn nuôi thử cừu, trồng thử nho ở Phan Rang, nuôi thí nghiệm đà điểu ở Ninh Hòa, gà Tây (turkey) ở Đồng Nai, tuy chưa thành công nhưng sau đó có người triển khai tiếp. 

Ông cũng là một triệu phú nhờ có nhiều nông trại trồng cao su xuất bán cho hãng lốp xe Michelin và đồng thời là cổ đông lớn của Ngân hàng HSBC. Ông cho rằng: “Tôi phải kiếm tiền kiểu khác chứ không tài nào cầm được tiền của các bệnh nhân”. Toàn bộ tiền lãi của ông đến nay vẫn còn và vẫn bí mật chuyển đều đặn về một quỹ từ thiện và quỹ nghiên cứu khoa học.  

Với tầm nhìn vĩ đại, ngoài việc mang sang cho chúng ta bao nhiêu giống cây trồng, vật nuôi mới lạ, khám phá và xây dựng Sapa, Đà Lạt, Bà Nà... thành những nơi du lịch nghỉ dưỡng, ông còn tham gia quy hoạch đô thị khu trung tâm Sài Gòn, Hà Nội, Nha Trang, Đà Nẵng, Hải Phòng, ranh giới các tỉnh... mà chúng ta ngày nay hay có cụm từ “ngày xưa người Pháp đã quy hoạch chỗ này là, chỗ kia là...”. Ông đã giúp người Việt chúng ta có được nền tảng kinh tế ban đầu từ một nước thuần nông lạc hậu, những công trình về hạ tầng, giáo dục, y tế. 

Do chính quyền Pháp khi đó rất tín cẩn ông, vì ông đi nhiều, khám phá nhiều. Hầu như mọi ngóc ngách ở Lào, Việt Nam và Campuchia đều có dấu chân ông. Núi cao vực sâu, thú dữ, bệnh tật...  không hề làm ông nản bước. Ông luôn yêu cầu Pháp phải xây dựng ít nhất ở mỗi tỉnh một trường trung học lớn và 1 bệnh viện đủ để chữa trị hết cho cư dân tỉnh đó.

Ông còn yêu cầu Chính phủ Pháp đầu tư tiền để xây đường sắt Bắc - Nam từ ga Hà Nội đến ga Sài Gòn, hiện chúng ta vẫn còn đang khai thác. Con đường quốc lộ 1A thời đó là con đường đất nhỏ xíu (gọi là con đường cái quan) bề rộng chỉ có 2-3 mét từ thời Chúa Nguyễn đã được ông “bày vẽ” cho kè đá, rải nhựa, mở rộng nâng cấp để xe ô tô có thể chạy được. Ông nói phải ưu tiên làm con đường to nhất, tốt nhất gọi là quốc lộ, chạy ngang qua hết các tỉnh ven biển để người dân tỉnh nào cũng có thể hưởng lợi từ giao thông.

Đường sắt leo dốc Phan Rang đi Đà Lạt cũng là ông tư vấn cho toàn quyền Doumer làm. Các trạm khí tượng từ Sapa đến Mẫu Sơn, đến Bạch Mã, các ngọn hải đăng ngoài biển mà chúng ta thường nói “do Pháp xây” là do ông chọn vị trí. Những gì ông có thể nghĩ ra, ông đã làm tất cả cho người Việt… 

Ngôi nhà ông là trại tế bần khổng lồ

Và cuối cùng, ông  chọn Nha Trang để sống giản dị đến cuối đời. Một cuộc đời đầy ắp những chuyến đi thám hiểm và thành tựu, đầy ắp sự kính trọng và thương yêu. Nha Trang cũng là nơi tiếp cận điện ảnh đầu tiên của nước ta do ông mang về chiếu. Có lần khi trẻ con vào nhà ông xem phim và nghịch phá những chậu hoa quý, gia nhân toan ra mắng nhưng ông bảo “thôi đừng la trẻ nhỏ, mình lớn tiếng chúng sẽ sợ”.

Một lần ông lái xe hơi trên đường Rue de beau Rivage (đường bờ biển đẹp, nay là đường Trần Phú), một người dân bất cẩn lao vào xe ông và bị tai nạn. Dù lỗi của người đi bộ, nhưng ông chạy xuống giúp họ băng bó, xin họ tha thứ và kiên quyết trả lại xe cho chính phủ. Ông từ đó chỉ đi xe đạp, vì theo ông “dân chúng xứ này chưa quen luật lệ nên đi lại vô tư, mình đi xe đạp có va chạm thì cũng nhẹ để không gây thương vong cho họ”... 

Có lần ông lên Tây Nguyên tìm thuốc, người dân tộc đã bắt ông, định hành quyết. Nhưng họ nhìn vào mắt ông, thấy một sự chân thành và thiện lương kỳ lạ, họ lại thả ông ra. Ông sau đó chữa trị bệnh cho cả buôn làng và gửi thuốc men lên cho họ đều đặn. Ngôi nhà của ông là trại tế bần khổng lồ cho người sa cơ lỡ vận, ốm đau, bệnh tật, đói kém... của khắp vùng, mở cửa suốt ngày, suốt đêm. Ông không có vợ con vì dâng hiến phụng sự cả đời cho khoa học, nhưng người ta kính yêu ông như cha mẹ ruột. 

Năm 1943, trí thức toàn thế giới, đặc biệt giới Y khoa và giới thám hiểm đã bày tỏ sự thương tiếc vô hạn về một tài năng, một nhân cách lớn lao của nhân loại, một trái tim vĩ đại đã ngừng đập. Yersin từ trần tại nhà riêng ở xóm Cồn, Nha Trang. Giây phút cuối đời, ông nhờ người quản gia dìu ông ra phía cửa sổ, nhìn về phía biển, nhìn những con sóng vỗ ghi dấu một cuộc đời dọc ngang trái đất rồi trút hơi thở cuối cùng…

Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu ( Nha Trang)
Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu ( Nha Trang) 

Trong di chúc để lại, ông đã viết: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Hãy chôn tôi nằm úp xuống. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương (cộng sự lâu năm) giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm”.

Không kèn trống, không điếu văn, đám tang của ông diễn ra lặng lẽ, giản dị. Nghe tin ông mất, người dân Nha Trang bỏ hết công ăn việc làm để lo hậu sự như cha mẹ mình mất vậy. Tàu bè ngoài biển ngưng mọi hoạt động đánh bắt trong nhiều ngày, vội cập bến vô xóm Cồn. Những phụ nữ tiểu thương bán cá đã bỏ hết cá mắm, tiền bạc danh lợi, cởi cái nón lá Việt Nam quen thuộc xuống và lấy khăn tang đeo lên đầu, dù không ruột rà máu mủ gì. Người dân vừa đi vừa khóc. Đám tang dài ba cây số, đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng…

Ông được chôn theo đúng ý nguyện. Thi hài ông nằm sấp, đầu quay về biển như muốn ôm trọn mảnh đất Khánh Hòa vào lòng mình. 

Tên ông được lấy đặt cho con đường ở Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu cùng Thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia… 

Mãi nhớ người đặt nền móng cho một Việt Nam tốt hơn

Nhân dân Việt Nam biết đến Yersin là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Y Hà Nội, người khám phá ra cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt), người sáng lập ra Viện Pasteur Nha Trang...Cả nhân loại biết đến Yersin là nhà vi sinh vật học lỗi lạc. Trong tất cả các cuốn sách viết về những sự kiện lớn lao của lịch sử y học thế giới, chúng ta luôn gặp tên tuổi Yersin với hai khám phá nổi tiếng: xác định được cơ chế gây bệnh của vi khuẩn bạch hầu và tìm ra vi khuẩn dịch hạch.

Đọc thêm