Những kho báu kỳ lạ ở Tây Nguyên: Thực hư di sản của vua voi ở Bản Đôn

(PLVN) - Trong những câu chuyện truyền miệng từ đời này qua đời khác của người dân bản Đôn (xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk), người ta vẫn thường kể cho nhau nghe về người khai sáng ra bản Đôn và sự tồn tại về kho báu khổng lồ của vị vua voi Y Thu K’nul (ông tổ của nghề săn bắt, thuần dưỡng voi rừng – PV). 
Những kho báu kỳ lạ ở Tây Nguyên: Thực hư di sản của vua voi ở Bản Đôn

Dù tất cả đã đi vào dĩ vãng, chìm khuất sâu sau những cánh rừng bạt ngàn nhưng những hiện vật còn lại vẫn cho hậu thế thấy được một thời huy hoàng và giàu có của vị vua lừng danh.

Chuyện 200 năm về trước...

Mảnh đất Tây Nguyên gần vào Xuân nhưng chỉ toàn nắng và gió, trên khắp các nẻo đường, ánh nắng như muốn thiêu đốt tất cả. Đường vào bản Đôn dù xa  nhưng những lời truyền miệng về vị vua voi danh tiếng vẫn khiến khách phương xa tò mò lẫn ngưỡng mộ.

Ngược dòng quá khứ 200 năm về trước, có một đám cưới diễn ra tại một buôn làng giáp ranh biên giới Việt Nam - Campuchia. Cô dâu trong đám cưới là người M’nông còn chú rể người Lào. Chỉ có điều sau cuộc hôn nhân được vài tháng, cô dâu đã lâm bồn, một bé trai chào đời cất tiếng khóc vang động cả đại ngàn được đặt tên là Y Thu K’Nul.

Không ai có thể nghĩ, đứa bé có lai lịch “bất minh” ấy, sau đó đã làm nên huyền thoại khắp một vùng Tây Nguyên rộng lớn. Trong số các câu chuyện được lưu truyền lại cho đến ngày nay, người ta vẫn tò mò về kho báu khổng lồ mà ông đã gây dựng nên.

 

Cuộc đời của ông từ khi sinh ra đến khi mất đi đều gắn với những câu chuyện phi thường, những câu chuyện mà cho đến nay chỉ còn vài người ghi nhớ. Theo đó, Y Thu mang họ K’nul là theo tiếng Lào, còn tiếng M’nông gọi là Rơ Nôl. Là con cả trong gia đình có 5 anh em nhưng Y Thu lại không có con nối dõi. Xuất thân của Y Thu từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi chưa ai dám khẳng định chắc chắn.

Theo lời kể của ông Ama Ghi (SN 1940, cháu đời thứ tư của Y Thu), tại nơi núi cao, rừng thẳm lúc bấy giờ, các dân tộc thiểu số vùng đất đỏ này vẫn sống trong chế độ bộ tộc. Mẹ của Y Thu là người M’nông Bu Dương. Khi còn là thiếu nữ, bà đẹp như một đóa hoa rừng. Được nhiều chàng trai đem lòng yêu mến trong đó có mối tình với tràng trai dũng cảm nhất vùng người M’nông.

Tuy nhiên, chàng trai đã hy sinh trong một trận chiến với bộ tộc khác. Trước khi chết, chàng dũng sĩ đã để lại giọt máu của mình nơi thiếu phụ M’nông xinh đẹp. Sau cái chết của người yêu, một chàng trai xuất thân từ gia đình giàu có ở Lào qua vùng đất này buôn bán đã đem lòng yêu mến thiếu phụ xinh đẹp. Người con trai đó bất chấp điều tiếng đã hỏi cưới nàng làm vợ.

Cảm phục tấm lòng của chàng trai, cô gái đã đồng ý làm vợ. Hai người nên vợ nên chồng. Vì người M’nông theo chế độ mẫu hệ, nên cả hai người ở lại quê vợ cùng nhau tạo dựng cơ nghiệp.

Năm 1829, Y Thu ra đời. Cậu lớn nhanh như cây rừng gặp đất tốt, nhanh nhẹn và dũng mãnh như con thú hoang, đặc biệt là nhân cách của cậu khiến người người quý mến, nể phục.

Gia đình Y Thu lúc ấy cũng có tiếng tăm ở trong làng, nhất là cách sống nhân hậu của họ đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những gia tộc khác. Khi Y Thu lớn lên cũng là lúc sự ganh ghét lên đến đỉnh điểm.

Kẻ cầm đầu một gia tộc độc ác khét tiếng là Srem Lem đã bất ngờ đem quân đánh gia đình Y Thu. Cuộc tập kích bất ngờ khiến 12 người chết, mẹ của Y Thu bị bắt nhốt vào hang đá. Riêng Y Thu nhờ một người bạn trung thành mở đường máu nên kịp thoát thân.

Sau nhiều lần cố gắng giải cứu mẹ không thành, người bạn đã khuyên Y Thu đến gặp nữ tù trưởng người Ê Đê Yă Wăm (tù trưởng nổi tiếng về sự giàu có và quyền lực, cả đời không lấy chồng – PV) để mượn quân.

Dũng sĩ cứu mẹ, lập làng

Để cứu mẹ, Y Thu lặn lội tìm lên vùng cao nguyên có tên đặt theo tên nữ tù trưởng. Vượt qua một chặng đường dài, đối mặt với bao thú dữ cuối cùng chàng thanh niên dũng cảm cũng đến được nơi. Y Thu kể lại chuyện mình cần người để cứu mẹ đang bị bắt làm con tin, nữ tù trưởng Yă Wăm nghe hết câu chuyện, nhìn vào đôi mắt đầy ý chí của Y Thu, bà đã nhận lời.

Những thanh niên trai tráng, khỏe mạnh nhất buôn được triệu tập đến trước nhà Yă Wăm. Tương truyền Yă Wăm ra lệnh cho họ ngửa mặt lên trời, ai chớp mắt sẽ bị loại, vì theo họ nếu chớp mắt sẽ không tránh được gươm đao của kẻ thù. Cuối cùng Y Thu đã mượn được một đạo quân tinh nhuệ để trở về cứu mẹ.

Dưới sự chỉ đạo của Y Thu và sự giúp sức của người bạn thân, cuộc giải cứu diễn ra bất ngờ và trót lọt, tuy nhiên ngay sau đó kẻ thù đã dùng một lực lượng lớn truy đuổi. Y Thu đưa quân và gia đình từ vùng biên chạy sâu vào Tây Nguyên.

Sau nhiều ngày, họ đến một vùng đất cây cối um tùm nhô lên như ốc đảo, giữa con suối lớn có nhiều nhánh bao quanh, nhiều ghềnh đá. Gia đình, dòng họ Y Thu đưa nhau qua suối trốn kẻ thù, còn quân của Yă Wăm trở về buôn của họ đồng thời đánh lạc hướng kẻ địch.

Dũng sĩ săn voi
Dũng sĩ săn voi 

Ở trên đảo, thấy địa thế thuận lợi, gia tộc Y Thu dựng nhà sinh sống, đặt tên là Bon Akao (theo tiếng M’nông), còn tiếng Lào gọi là Ban Đôn, mãi sau này gọi là Buôn Đôn theo tiếng phổ thông. Khúc sông được đặt tên là thác Bảy Nhánh (nay thuộc buôn N'Drech, xã Ea Huar, huyện Buôn Đôn).

Sau một thời gian tìm kiếm, kẻ thù cuối cùng cũng phát hiện ra chỗ ở của Y Thu, chúng dùng tiền bạc và thế lực liên kết với người Ê Đê để quyết tiêu diệt gia đình Y Thu. Đoán biết âm mưu của kẻ thù, Y Thu cho dựng 3 cầu treo nối đảo với đất liền. Khi tất cả quân địch đã lên cầu, Y Thu liền ra lệnh chặt dây. Nhờ vậy, một số lượng lớn quân địch bị dòng nước cuốn trôi. Tuy nhiên sau đó ông đã ngỏ ý làm hòa và trả lại con tin cho kẻ thù khiến họ vô cùng nể phục và không gây hấn từ đó về sau.

Có được sự hòa bình, Y Thu tập trung lo phát triển kinh tế, lập làng trên hòn đảo nhỏ. Sinh sống ở đảo 7, 8 năm, do đất chật, xung quanh là sông dữ, giao lưu với bên ngoài rất khó khăn nên trong một lần bị cháy làng, Y Thu đã quyết định đưa cả dòng họ ngược lên thượng nguồn con sông Krông Na (nay là sông Srêpốk). Y Thu cùng dòng họ quyết định lập buôn, định cư lâu dài ở đây.

Có cái đầu biết thông minh lanh lẹ, Y Thu đã sáng tạo ra cách bắt voi rừng về thuần dưỡng và buôn bán, dòng họ Y Thu nhanh chóng giàu có. Số người trong họ và những người nghe tiếng Y Thu kéo đến sinh sống ngày một tăng, đất rừng khai phá lại bị hạn chế bởi những tộc người xung quanh khiến ông rất trăn trở vì điều đó.

Vận may đến khi trong một lần Y Thu đưa voi đi săn, người của nữ tù trưởng người Ê Đê Yă Wăm đã vô tình bắn chết voi mồi của Y Thu. Y Thu yêu cầu bà ta đền lại voi cho mình. Người phụ nữ quyền lực này cho người đi bắt voi trả Y Thu, nhưng người Ê Đê nào có săn voi bao giờ, vậy nên người bà ta cử đi đều ra về tay không, có người còn bị thương hoặc bỏ mạng do voi dẫm.

Không có cách nào đền lại voi, vị nữ tù trưởng đối mặt với việc sẽ thất tín, điều đó khiến bà có thể bị mất lòng tin của người dân. Lúc này Y Thu liền nói “voi cũng đã chết, nếu Yă Wăm không có voi trả thì cho tôi một phần đất để làm ăn sinh sống. Sau này sẽ đối xử với nhau như anh em…”.

Yă Wăm đồng ý và cắt cho Y Thu một vùng đất rộng lớn từ Suối Cạn (nay thuộc xã Tân Hòa) sang Ea Súp đến tận biên giới giáp ranh Campuchia.

(còn nữa)

Đọc thêm