Vợ bán đất có cần chồng là người nước ngoài ký tên?

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Bạn Văn Tiến (Hà Nội) hỏi: Anh rể tôi là người nước ngoài, chị gái tôi muốn bán lại mảnh đất đang thuộc sở hữu của anh chị. Xin hỏi khi bán mảnh đất đó, chị tôi có cần chồng của mình đồng ý và ký tên không?
Vợ bán đất có cần chồng là người nước ngoài ký tên?

Luật sư Trần Thị Loan (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết: Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Căn cứ quy định pháp luật hiện hành, nếu vợ, chồng không có thỏa thuận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi chung là GCNQSDĐ) đứng tên một người thì trong GCNQSDĐ phải ghi tên cả vợ và chồng khi nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5, Luật đất đai năm 2013 thì người nước ngoài không thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất nhận chuyển quyền sử dụng đất. Vì vậy chồng bạn sẽ không được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khi trên GCNQSDĐ chỉ có tên một người vợ hoặc chồng, theo Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.

Tiếp đó, căn cứ khoản 2, Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định, việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp: Bất động sản; động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Như vậy, chị gái bạn không được tự ý chuyển nhượng, phải có sự đồng ý bằng văn bản của chồng mình.

Đọc thêm