Chuyện bà cung phi tài sắc vẹn toàn…
Cách thành phố Hà Tĩnh chừng 50km về phía Nam, người dân Hà Tĩnh không ai chưa từng biết đến đền thờ Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, hay còn gọi với tên khác là đền Bà Hải. Ngôi “đền thiêng nơi cửa biển” nằm uy nghi, trầm mặc trên nền cát pha, quay mặt về hướng đông nam, nơi nhìn ra sẽ thấy được mây núi biển trời giao thoa, hòa hợp.
Thuộc xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh – vùng đất khai sơ nổi tiếng với nhiều kỳ tài của Hà Tĩnh, đây là nơi thờ phụng bà Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi của Vua Trần Duệ Tông (1337 – 1377). Người đời biết đến bà với sắc đẹp vẹn toàn, tài trí thông tuệ, là người phụ nữ có chí khí với quốc gia, đất nước cho đến lúc hy sinh.
Truyền thuyết kể rằng, Bà Hải tên thật là Nguyễn Cơ, tự Bích Châu, quê ở xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Trong các bộ sử tuyệt nhiên lại không có tên của vị cung phi này. Nhưng trong các áng văn chương và truyền ngôn, bà là con gái đại thần Nguyễn tướng công, một vị quan rất mực thanh liêm và bà Phạm phu nhân. Năm 40 tuổi mới sinh con, ông bà rất đỗi vui mừng coi con như ngọc, như châu, ngày đêm nâng niu, cho nên đặt tên là Bích Châu.
Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, nàng Bích Châu được cha mẹ săn sóc, dạy dỗ chu đáo về văn chương, đạo lý và được cậu là một võ tướng dạy võ thuật, cung kiếm. Vốn có nhan sắc, nên nàng sớm trở thành người văn võ toàn tài. Đến năm Long Khánh thứ nhất (1373) nàng được Vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi.
Sách “Truyền kỳ tân phả” của Đoàn Thị Điểm chép lại câu chuyện: “Dịp rằm tháng 8 năm nọ, nhà vua thấy mọi người đi lại mua bán nhộn nhịp vui vẻ, cảnh trí thật là ngoạn mục, nhà vua liền nghĩ ra một vế đối rằng:
“Thu thiên họa các quải ngân đăng nguyệt trung đan quế”. (Tức: “Trời thu gác tía/Treo đàn bạc, quế đỏ trong trăng”).
Trong lúc các quan lại đang suy nghĩ thì Bích Châu đã đối lại rằng:
“Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thủy đê phù dung” (Tức: “Sắc xuân đài trang mờ gương báu, phù dung đáy nước”).
Nhà vua nghe được liền tấm tắc khen. Và từ vế đối này, nàng được vua kén vào cung, lấy hiệu là Phù Dung. Nàng được vua rất mực yêu quý. Là phụ nữ, nhưng cái khí phách của nàng lấn át và làm lu mờ các đấng tu mi nam tử, cho dù họ là bậc minh quân, là loài thủy quái hay là những nhân vật đời thường.
Đối nghịch với Vua Trần Duệ Tông do dự và mềm yếu, nàng Bích Châu tỏa sáng bởi sự thông tuệ và quyết đoán. Trong tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, Bích Châu còn là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn và có chí khí, quyết sống chết với tấc lòng trung quân ái quốc.
Lúc bấy giờ, chế độ phong kiến nhà Trần suy vong, nhân tài không được trọng dụng, Quý phi Nguyễn Thị Bích Châu thảo bản “Kê minh thập sách” dâng lên nhà vua, được vua khen là thông tuệ.
“Kê minh thập sách” nàng đã đưa ra được những điểm trọng yếu nhất, thiết thực nhất về đường lối chính trị, văn hóa, quân sự để có thể giúp vua trị vì đất nước. “Kê minh thập sách” không chỉ phù hợp với thời đại của nhà Trần lúc bấy giờ mà còn có giá trị to lớn đối với các thế hệ sau này.
Khi Vua Duệ Tông muốn cất quân đánh Chiêm Thành, bà lại cùng Ngự sử Lê Tích hết sức can ngăn, vua vẫn không nghe. Bà bèn xin theo hầu vua. Đến cửa bể Kỳ Hoa, sóng gió nổi lên cản trở đoàn chiến thuyền, Bích Châu xin tự hiến mình cho giao thần để cứu ba quân. Bà nhảy xuống biển, tự nhiên gió im, sóng lặng. Nhưng lần ấy, Vua Duệ Tông bại trận và chết trong quân. Đó là ngày 23 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377).
Trong dân gian, người ta luôn tâm niệm rằng nàng Bích Châu chính là hiện thân cho hình ảnh người phụ nữ thời phong kiến chịu nỗi oan ức khó mà phân định. Đó là nỗi oan của phận nữ nhi khí phách hơn người, ngang cường chí khí, bởi nặng lòng trung quân ái quốc mà chấp nhận gieo mình nơi đầu sóng.
Dù là tình nguyện thì sự hy sinh của bà cho đến nay, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, vẫn mang âm hưởng oan nghiệt, dù rằng cái oan này khác với nỗi oan của nàng Mị Nương trong Người con gái Nam Xương.
Ngày nay, khi đến đền Bà Hải, người ta thấy được hai câu đối trước cửa đền để ghi nhớ về vai trò của bà trong lịch sử:
“Kê Minh Thập Sách thánh trí truyền lưu phù Việt Quốc
Chế thắng Phu nhân Mẫu ân vĩnh bảo hộ Nam dân”
(Tức: “Kê Minh Thập Sách trí tuệ thánh hiền truyền lưu phù nước Việt
Chế thắng Phu nhân ơn mẹ dài lâu gìn giữ giúp dân Nam”).
Đến ngôi đền thiêng của vùng Hải Khẩu
Đền Bà Hải với vị trí nằm ngay Eo Bạch, vùng cửa biển Hải Khẩu, im lìm tựa lưng vào núi, cũng đủ tạo cho người ta cảm nhận được sự linh thiêng của vùng một thời đất linh kiệt. Người Hà Tĩnh bảo nhau rằng, những ngày đầu năm, chưa đi được đền Bà Hải thì chưa thể thấy yên lòng. Có lẽ rằng, sự linh thiêng của ngôi đền tự này đến từ niềm tin đã hình thành trăm năm, hoặc cũng có thể đất trời nơi đây phú cho khu vực này một hồn thiêng mà hiếm nơi nào có được.
Những ngày đầu năm, người dân thường đến đây làm lễ. Đặc biệt, khi làm lễ khấn vái ở đây, bốc được que săm, đến lúc nhìn lại, người ta mới gật gù rằng quẻ săm ở đây là tốt nhất. Quẻ săm rút được tại đền Bà Hải sẽ nói lên tình hình bản thân và gia đình mình trong năm nay.
|
Những ngày đầu năm, đền Bà Hải luôn tấp nập khách đến để dâng hương hành lễ, mong bốc được quẻ săm tốt cho một năm mới |
Quẻ “thượng thượng” hay “đại cát” biểu hiện cho một năm thành công, mọi việc được như ý. Còn quẻ “hạ hạ”, “trung bình” lại biểu hiện cho một năm khá vất vả, khó khăn của gia chủ. Có người kể lại rằng: “Năm đó, gia đình tôi đi bốc quẻ săm, trong quẻ có ý “Con thuyền dong buồm lại ra khơi”, ý chỉ năm đó sẽ đi làm ăn xa. Đúng thật, năm đó em trai tôi đi ra nước ngoài lao động thuận lợi, bình an”.
Nhưng có lẽ đây không chỉ là sự ngẫu nhiên bởi các gia đình đến đây hầu như ai cũng kể với nhau những câu chuyện linh thiêng của quẻ săm bốc được ở đền Bà Hải.
Thuyết rằng, trong năm 1470, Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua cửa biển Kỳ Hoa, bà Bích Châu báo mộng xin nhà vua cứu giúp. Vua sai làm tờ điệp trách vua Thủy tề là Quảng Lợi vương, bắn ra biển. Vua Thủy tề liền ra lệnh tróc nã giao thần (thần thuồng luồng).
Thi hài bà nổi lên mặt nước, vẫn như người nằm ngủ. Nhà vua sai làm lễ mai táng ở bãi Bạch Tấn, lại sai lập đền (miếu) thờ ở cửa biển và có sắc phong thần. Trong sắc phong năm đó, vua tặng bà hai chữ Chế thắng. Từ đó, đền thờ này cũng được đặt tên thành đền thờ Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu.
Cứ mỗi dịp lễ… lại nô nức người
Những ngày này, đền Bà Hải luôn tấp nập người đi cầu lễ. Theo lời người quản lý tại đền, trong vòng một tháng đầu năm kể từ ngày 30 Âm lịch đến hết tháng Giêng, lượng khách đến đây rất đông. Khách đến cầu lễ không chỉ riêng người dân Hà Tĩnh mà còn có khách các tỉnh khác từ xa đến. Trong một ngày, lượng khách đến đây làm lễ có thể lên tới hàng trăm người, thường đông nhất vào các ngày từ mồng 1 đến mồng 10 Âm lịch.
Riêng với người dân Hà Tĩnh, đi đền Bà Hải như đã trở thành tục lệ ngày đầu năm. Đi đền Bà Hải không chỉ để cầu tài vận cho một năm mới mà còn trở thành một phong tục truyền thống đẹp ở Hà Tĩnh. Anh Đặng Văn Thành (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) cho biết: “Nhân dịp đầu xuân năm mới, tôi và gia đình đến đền Bà Hải bắt thăm cầu may. Gia đình tôi nhiều lần đến đây, thấy đền Bà Hải linh thiêng và tin tưởng nên năm nào cũng đi đền để cầu cho năm mới khỏe mạnh, gia đình yên ấm, làm ăn thuận lợi”.
|
Người dân viết sớ tại khu vực làm lễ |
Ngày 03/8/1991, Bộ Văn hóa - Thông tin đã có Quyết định công nhận đền thờ Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu là Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Đền thờ Chế thắng Phu Nhân Nguyễn Thị Bích Châu đã trở thành địa chỉ tâm linh thu hút du khách đến thăm dịp đầu năm mới.
Cùng với đất cảng Vũng Áng, núi Bàn Độ, nơi đây đã trở thành một phần trong hơi thở tâm linh của người Thành Sen, để người ta nhớ đến công ơn vị cung phi thân nữ nhi, cốt chí khí hiếm có trong lịch sử dân tộc.