Chuyện về bài thơ Thần
Một lần, Lý Thường Kiệt dẫn quân đi kiểm tra chiến tuyến, khi đến Phương La, thấy có ngôi đền lớn bên ngã ba Xà, hỏi ra mới biết đây là đền Xà, thờ nhị vị Đại Vương Tôn Thần họ Trương - Đức Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát. Lý Thường Kiệt bèn truyền quân sửa lễ vào đền thắp hương bái yết, cầu xin âm phù hộ quốc. Truyền thuyết về sự kiện lịch sử này, dân trong vùng kể rằng:
Đêm ấy, nằm nghỉ ở đình Xà - Ngọt, đang lúc chập chờn nửa tỉnh, nửa mơ, Lý Thường Kiệt thấy hai vị thần nhân, mũ áo chói loà hiện ra. Lý Thường Kiệt vội đứng dậy bái chào. Hai vị thần nhân cao lớn, lẫm liệt khác thường.
Một vị mặt đen, mắt xanh, mặc áo bào trắng. Một vị mặt trắng, râu dài, mình khoác bào đỏ, bảo rằng: Mới tới thăm nhau buổi sáng mà đã vội quên! Lũ giặc Tống kia, chỉ cần làm bạt hồn vía chúng thì chúng sẽ tan. Anh em chúng tôi xin mang thần binh đến giúp ngài quét sạch lũ giặc... Dứt lời liền ngâm bài thơ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Bấy giờ Lý Thường Kiệt mới biết, đấy là hai vị thần thờ ở đền Xà. Tiếng ngâm vừa dứt, bỗng hai vị thần nhân hoá thành đôi rắn có mào, trườn về phía sông Cầu.
|
Bài thơ Thần được ghi khắc lại trên bia tại đền Xà. |
Lý Thường Kiệt liền truyền quân đốt đèn, lấy bút nghiên và ông ngồi trầm ngâm tự chép lại bài thơ Thần trong trí nhớ. Chép đi chép lại nhiều lần mới nhớ đúng được lời của bài thơ. Lý Thường Kiệt đắc ý khẽ cất tiếng ngâm. Mấy tỳ tướng chầu hầu nghe được, phấn chấn hẳn lên cũng lẩm nhẩm học theo. Lý Thường Kiệt sai quân chép bài thơ Thần làm nhiều bản, gửi tới tướng sĩ khắp chiến tuyến.
Hôm sau ông bí mật đưa đại quân vượt sông sang bờ Bắc, mở trận tập kích vào đồn lũy giặc Tống. Lý Thường Kiệt đứng trước cửa đền Xà, bỗng nghe từ trên không trung có tiếng hò reo, ngựa người rầm rập, khí giới loảng xoảng cùng âm vang tiếng chiêng, tiếng trống theo nhịp bước quân đi.
Ông ngửa mặt nhìn lên, thấy hai vị thần họ Trương, áo mũ xanh đỏ tề chỉnh, ngự trên đám mây trắng, quân sĩ đứng hai bên giáo mác tua tủa. Biết có thần binh trợ giúp, quân sĩ đều háo hức muốn xông ngay vào đồn giặc. Liền đó, từ trên cao xanh trước cửa đền vọng xuống tiếng ngâm bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” ngâm đi ngâm lại nhiều lần.
Càng về sau tiếng ngâm càng sang sảng. Nghe tiếng thơ rền vang, tinh thần quân ta phấn chấn ào ạt xông lên giết giặc. Bên kia bờ Bắc, quân Tống nghe tiếng thơ ngâm mà hoảng sợ, bạt vía kinh hồn. Trước sức tiến công như vũ bão của quân ta, quân giặc tan vỡ thành từng mảng, bỏ chạy toán loạn, giẫm đạp lên nhau.
Xác giặc ngổn ngang trên cánh đồng Mai Thượng (nay vẫn còn dấu ấn lịch sử là cánh đồng Xác và ngôi chùa Xác, sau đổi lại là An Lạc Tự). Quân Tống đại bại, sau trận ấy vội vàng rút quân về nước.
Huyền tích về nhị vị Thần họ Trương
Tìm về đền Xà một ngày cuối năm, ngôi đền vẫn giữ được vẻ nguyên sơ cổ kính vốn có. Nằm nép mình trong rặng cổ thụ, cổng đền nhìn thẳng ra ngã ba Xà. Dù trải qua nghìn năm binh biến, thời thế đổi dời nhưng những dấu tích người xưa vẫn còn in đậm tại ngôi đền nhỏ bé linh thiêng này.
Cụ Vũ Công Cường (thủ nhang đền Xà) cho biết: “Đền Xà là ngôi đền cổ của làng Xà, phụng thờ nhị vị Đại Vương vị Đại Vương Tôn Thần họ Trương – Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát, một danh tướng của Triệu Việt Vương chống quân Lương”.
Thời điểm Lý Phật Thử cướp ngôi, diệt Triệu, hai danh tướng trung thành đã không theo nhà Lý. Trương Hống, Trương Hát cùng gia đình của mình xuôi thuyền từ Thái Nguyên trên sông Cầu về nơi ngã ba Xà. Bấy giờ, thấy cảnh vật phong quang, vị thần họ Trương quyết định rút thuyền tức tuất tại ngã ba sông Xà.
|
Tượng thờ thân Mẫu và thánh Tam Giang tại hậu cung đền Xà. |
Trong lúc đó, ngài mang 3 ông đầu rau (tức vua bếp) để lên bờ nhưng với lòng trung thành thì 3 ông đầu rau tự lăn xuống sông nơi Đức Thánh tuẫn tức chìm xuống. Lúc bấy giờ, cá, thuồng luồng nhảy lên bờ như vui mừng đón vị Thần thác hóa tại đây.
Nhân dân sau thấy sự linh ứng mà lập đền khói hương thờ phụng. Ngay trong hậu cung đền thờ vẫn còn ban thờ Táo quân như sự gắn bó với 3 ông đầu rau đã tuẫn tức cùng Đức Thánh. Cạnh đền Xà là đền cô, tương truyền thờ em gái của Ngài là Trương Đạm Nương.
Nằm trên bãi bồi Ngã ba Xà - Đền Xà là nơi chứng kiến trận quyết chiến chiến lược của quân dân nhà Lý trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược. Bài thơ Thần “ Nam quốc sơn hà” cất lên tại đây thể hiện được ý chí quyết chiến, quyết thắng và lòng yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt, dám đánh và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thể hiện sự tự chủ, tự tôn của dân tộc đối với mỗi tấc đất của Tổ quốc.
Bài thơ làm bạt vía quân thù; khích lệ tinh thần quân ta, góp phần làm nên chiến thắng hào hùng của quân dân nhà Lý năm 1077 đánh tan quân xâm lược. Ngã ba Xà là nơi hợp lưu của hai con sông cổ Cà Lồ và sông Cầu (xưa gọi sông Như Nguyệt) cùng chảy xuống Lục Đầu Giang (Phả Lại - Hải Dương).
Sông nằm giữa 3 tỉnh Bắc Ninh – Bắc Giang – Hà Nội, phía bên sông có chùa Xác và bãi Xác, tương truyền những dấu tích quân Tống còn sót lại khi giao chiến với quân ta tại phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Đền Xà có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người dân nơi đây. Dù ở nơi ngã ba sông hẻo nánh, nhưng vì sự linh thiêng mà không ai dám xâm phạm Thánh tích.Từ xa xưa, đền Xà thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) như một minh chứng cho những sức mạnh của người Việt, dù ở thời nào luôn có những vị Thần phù trợ muôn dân bảo vệ đất nước. Bài thơ Thần như một sự khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc là bất khả xâm phạm. Sự độc lập và trường tồn của dân tộc Việt là thuận lẽ Trời.
|
Một sơ đồ của chiến tuyến trên sông Như Nguyệt tại đền Xà. |
Có hơn 300 làng ven các triền sông Cầu, sông Cà Lồ, sông Thương có đình, đền thờ Đức Thánh Tam Giang. Riêng các làng ven triền sông Cầu kể từ thượng nguồn xuống hạ lưu, hầu như đều tôn thờ Thánh Tam Giang làm Thành hoàng làng. Hàng năm, làng Đoài xã Tam Giang đều đặn tổ chức hai ngày lễ lớn tại đền: Mùng 5 tháng Giêng và mùng 8/4 (âm lịch).
Trên tấm bia đá “Linh từ bi ký” niên đại Minh Mệnh 16 (1835) cho biết khá rõ việc trùng tu đền Xà vào thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVIII. Trong kháng chiến chống Pháp đền Xà bị phá do yêu cầu tiêu thổ kháng chiến.
Từ đó đến nay trải qua vài lần tu sửa nhỏ, phải đến năm 1993 - 2000, ngôi đền được Nhà nước đầu tư kinh phí, nhân dân góp công, góp sức trùng tu tôn tạo như dáng vẻ ngày nay, nhưng vẫn chưa tương xứng với giá trị văn hóa và lịch sử của ngôi đền, nơi ghi dấu chiến công oanh liệt của quân dân nhà Lý trên phòng tuyến Như Nguyệt, thể hiện tài năng quân sự kiệt xuất của Thái sư Lý Thường Kiệt.
Cũng như nơi phụng thờ hai vị Thần cổ xưa vẫn luôn theo dõi và phù trợ dân tộc trước những khó khăn và xâm lược của giặc Phương Bắc.
Giữa những thay đổi của lịch sử, tinh thần dân tộc bất diệt của ngôi đền Xà vẫn mãi trường tồn như chính hành trình của nó trong tâm thức người Việt. Một huyền tích khác về bài thơ Thần cũng là minh chứng cho tinh thần độc lập được nối dài dù ở thời kỳ lịch sử hay không gian nào.