Nguy cơ cao khi "tình dục đồng giới"

(PLO) - Tình dục đồng giới rất có hại cho sức khỏe. Ngoài việc bị nhiễm HIV/AIDS ra, những người đồng tính luyến ái nam hay bị viêm niêm mạc trực tràng, bị trĩ, rối loạn tiêu hóa, suy nhược thần kinh, mất ngủ…
Nguy cơ cao khi "tình dục đồng giới"
Đây là nguy cơ mới nổi trong những năm gần đây gắn liền với thực tế xã hội xuất hiện cộng đồng người đồng giới. Đa số các đôi đồng tính đều không hề biết rằng quan hệ tình dục qua hậu môn rất dễ bị tổn thương, trầy xước bộ phận hậu môn gây chảy máu.
Nguyên nhân trở thành người đồng tính
Gần đây, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu y học bang Xan Diego (Mỹ) cho thấy, căn bệnh đồng tính có nguồn gốc sinh học. Qua theo dõi 141 bệnh nhân có biểu hiện lệch lạc về tình dục (sinh hoạt tình dục đồng giới), các nhà khoa học cho thấy rằng, trong não những người mắc bệnh này có một bó sợi thần kinh đặc biệt điều phối hoạt động tình dục có kích thước chỉ bằng 1/3 so với người bình thường và đó chính là nguyên nhân gây nên hiện tượng tình dục đồng giới.
Một số nhà khoa học Mỹ cho rằng, những biểu hiện lệch lạc về tình dục được đặt nền móng khi bào thai còn nằm trong bụng mẹ. Nhiều loại thuốc khác nhau, các chất độc hại, hút thuốc lá, thuốc phiện, uống rượu, sự căng thẳng thần kinh đều có ảnh hưởng tới bào thai, phá vỡ sự phát triển bình thường của nó.
Người ta phát hiện ra rằng, những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ nghiện ma túy và uống rượu, khi lớn lên có biểu hiện đồng tính luyến ái nhiều hơn so với những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ bình thường.
Tình dục đồng giới mang lại hậu quả rất nghiêm trọng
Năm 1981 những ca AIDS đầu tiên được phát hiện ở 5 thanh niên sinh hoạt tình dục đồng giới tại Los Angeles (Mỹ), điều đó giải thích vì sao lúc đầu người ta gọi AIDS là căn bệnh của những người đồng tính luyến ái.
Những người sinh hoạt tình dục đồng giới nam có nguy cơ bị lây nhiễm AIDS cao hơn so với tình dục đồng giới nữ. Họ sinh hoạt tình dục qua đường hậu môn, làm tăng nguy cơ bị lây nhiễm HIV từ người bệnh sang người lành. Hậu môn không có dịch nhờn bôi trơn. Hơn nữa, niêm mạc trực tràng có nhiều mao mạch, dễ bị tổn thương, xây xước khi sinh hoạt tình dục qua đường này. Những vết xước rất nhỏ không thể nhận thấy bằng mắt thường trên bề mặt của niêm mạc hậu môn xảy ra trong lúc giao hợp là đường xâm nhập của HIV.
Qua những vết xây xước này, HIV sẽ xâm nhập từ người bị nhiễm HIV sang người lành và từ đó vào máu. Trong tinh dịch người bệnh có chứa rất nhiều HIV, nên người nhận tinh dịch (đóng vai trò phụ nữ) có nguy cơ bị nhiễm HIV cao hơn so với người không nhận (đóng vai trò nam giới).
Theo tạp chí Boston Globe (2007), ở Mỹ bệnh giang mai hay xảy ra ở những người đồng tính luyến ái nam do họ không sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục. Một điều đáng lo lắng là nhiều người trong số họ có tư tưởng hưởng thụ quan hệ tình dục không an toàn (không dùng bao cao su), có thể cả họ và bạn tình đã mắc AIDS nên không cần giữ gìn hoặc họ ỷ lại những thuốc mới có thể giúp họ được. Chính vì vậy mà những người đồng tính luyến ái nam được xếp vào nhóm những người có nguy cơ cao bị lây nhiễm HIV/AIDS (đồng tính luyến ái nam, nghiện chích ma túy, gái mại dâm…).
Theo số liệu của Cục phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, đa số những người nhiễm HIV là nam giới chiếm 84,64%, nữ 15,36%. Số người bị nhiễm HIV chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi trẻ từ 20 – 29 tuổi (55,10%), 30 – 39 tuổi (25,18%) và ngày càng có xu hướng trẻ hóa.
Những người đồng tính luyến ái nữ có nguy cơ nhiễm HIV thấp hơn so với nam giới. Họ thường âu yếm, vuốt ve nhau, kích thích những vùng nhạy cảm cơ thể của nhau, ít khi họ quan hệ tình dục với nhau (nhờ các dụng cụ hỗ trợ).
Tình dục đồng giới rất có hại cho sức khỏe. Ngoài việc bị nhiễm HIV/AIDS ra, những người đồng tính luyến ái nam hay bị viêm niêm mạc trực tràng, bị trĩ, rối loạn tiêu hóa, suy nhược thần kinh, mất ngủ… Vì vậy nên tránh quan hệ tình dục đồng giới hoặc quan hệ tình dục không an toàn. Nếu ai có hiện tượng bị quyến rũ bởi những người cùng giới, nên đến bác sĩ chuyên khoa thần kinh – tâm lý để được tư vấn và khám bệnh, giúp họ thăng bằng trở lại, tránh được những lệch lạc về giới tính.