Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể khi bị tai nạn lao động được xác định như thế nào?

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Bạn Phạm Hải (Bình Dương) hỏi: Công ty tôi có người lao động bị tai nạn lao động ở đầu gối chân phải, nhưng trước đó người này cũng bị tai nạn và bị thương ở cùng vị trí đó. Đến nay, khi giám định thì tỷ lệ tổn thương trên 31%, nhưng nếu chỉ tính lần này thì chưa được 31% để làm cơ sở hưởng trợ cấp hàng tháng. Vậy xin hỏi, với trường hợp này thì chúng tôi sẽ xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể như thế nào?
Luật sư Phạm Minh Hoàng.
Luật sư Phạm Minh Hoàng.

Luật sư Phạm Minh Hoàng - Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh tư vấn: Căn cứ Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 quy định, người lao động (NLĐ) tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:

Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật Lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh.

Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động.

Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.

Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015.

NLĐ không được hưởng chế độ do Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả nếu thuộc một trong các nguyên nhân quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật An toàn vệ sinh lao động 2015.

Như vậy, nếu NLĐ bị tai nạn thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 và suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên, NLĐ sẽ được hưởng hưởng chế độ tai nạn lao động.

Về các chế độ trợ cấp đối với NLĐ bị tai nạn lao động, khoản 1 Điều 48 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 quy định, NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015, NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng.

Căn cứ Điều 47 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015, các trường hợp giám định mức suy giảm khả năng lao động được xác định như sau:

NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Sau khi bị thương tật, bệnh tật lần đầu đã được điều trị ổn định còn di chứng ảnh hưởng tới sức khỏe; sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định; đối với trường hợp thương tật hoặc bệnh nghề nghiệp không có khả năng điều trị ổn định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế thì NLĐ được làm thủ tục giám định trước hoặc ngay trong quy trình điều trị.

NLĐ được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Vừa bị tai nạn lao động, vừa bị bệnh nghề nghiệp; bị tai nạn lao động nhiều lần; bị nhiều bệnh nghề nghiệp.

NLĐ sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định, được giám định lại tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau 24 tháng, kể từ ngày NLĐ được Hội đồng giám định y khoa kết luận tỷ lệ suy giảm khả năng lao động liền kề trước đó; trường hợp do tính chất của bệnh nghề nghiệp khiến NLĐ suy giảm sức khỏe nhanh thì thời gian giám định được thực hiện sớm hơn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Như vậy, trong trường hợp này, NLĐ được thực hiện giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động.

Bên cạnh đó, căn cứ điểm b khoản 5 Điều 13 Thông tư 56/2017/TT-BYT quy định về nội dung khám giám định tổng hợp, theo đó trường hợp đối tượng đã bị thương tật hoặc bệnh nghề nghiệp nhưng mắc thêm thương tật hoặc bệnh nghề nghiệp trùng lặp với tổn thương trước đây thì thực hiện khám đúng, đủ thương tật, bệnh nghề nghiệp hiện có và căn cứ vào kết quả khám để xác định tỷ lệ suy giảm khả năng lao động theo phương pháp quy định tại Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH.

Dẫn chiếu đến Điều 3 Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH quy định về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể như sau:

Việc xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể được tính theo công thức sau: Tổng tỷ lệ % TTCT = T1 + T2 + T3 +…+ Tn

Trong đó: T1: Tỷ lệ % TTCT của tổn thương thứ nhất; T1 được xác định là tỷ lệ % TTCT cao nhất trong các TTCT. T2: Tỷ lệ % TTCT của tổn thương thứ hai; T2 = (100 - T1) x giới hạn dưới của TTCT thứ 2/100%. T3: Tỷ lệ % TTCT của tổn thương thứ ba; T3 = (100-T1-T2) x giới hạn dưới của TTCT thứ 3/100%. Tn: Tỷ lệ % TTCT của tổn thương thứ n, Tn= {100-T1-T2-T3-…-T(n-1)} x giới hạn dưới của TTCT thứ n/100%.

Như vậy, trong trường hợp tai nạn lao động bạn nêu, cần tham khảo để áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể nêu trên để xác định. Cụ thể, đối với trường hợp NLĐ bị thương do tai nạn lao động cùng ở một vị trí với lần bị thương trước đó, cần giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể trong từng lần bị thương, qua đó xác định được tỷ lệ tổn thương cơ thể do tai nạn lao động gây ra để xác định chế độ trợ cấp được hưởng.

Đọc thêm