Cơ chế tạo sở hữu chéo ?

(PLO) - Theo các chuyên gia Trường đại học (ĐH) Kinh tế quốc dân, một trong những nguyên nhân chủ quan lớn nhất tạo kẽ hở cho tình trạng sở hữu chéo (SHC) phát triển tràn lan là hệ thống các quy định pháp luật về quản lý và hạn chế SHC chưa chặt chẽ hoặc chưa đồng bộ với các văn bản khác… 
Cơ chế tạo sở hữu chéo ?
“Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược…”
Là cách nói của một số chuyên gia về chuyện công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần. Theo Điều 26 Thông tư 52/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán ( TTCK), cá nhân, tổ chức và nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng (trong trường hợp này là ngân hàng -NH) mới phải báo cáo về tỷ lệ sở hữu cho các cơ quan quản lý. 
Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 55 Luật Các TCTD, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD. Do vậy, kết hợp hai quy định này với nhau, sẽ có rất ít cổ đông cá nhân của NH phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. Mặc dù Khoản 3 Điều 55 Luật Các TCTD đã quy định: cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD, nhưng quy định về “người có liên quan” hiện nay cũng chưa rõ ràng, việc lách luật như trên hoàn toàn có thể xảy ra. 
Do vậy, để phát hiện được các mối quan hệ SHC, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin, đặc biệt là nhóm đối tượng là người có liên quan, đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu NH mà ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin. Cụ thể, các đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu NH là: (i) Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTM CP từ 1% trở lên; (ii) người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTM CP từ 1%. 
Không rõ ai là “người có liên quan”, “người sở hữu cuối cùng”?
Theo Điều 55 Luật Các TCTD, cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD; cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5%, tổ chức không quá 15% vốn điều lệ của TCTD; các tỷ lệ sở hữu trên bao gồm cả phần vốn ủy thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần. 
Tuy nhiên, quy định hiện hành về người có liên quan của cổ đông không bao trùm hết, dù có mở rộng đối tượng phải công bố thông tin sở hữu thì sự nhập nhằng trong các mối quan hệ liên quan vẫn tạo cơ hội cho SHC được che giấu, không xác định được ai là người sở hữu cuối cùng. Thông qua những pháp nhân và thể nhân khác nhau, một cá nhân có thể sở hữu vượt những quy định trên. 
Để khắc phục khó khăn trong quản lý, giám sát sở hữu, đầu tư chéo, cần hoàn thiện quy định hiện hành về xác định rõ “người liên quan“, bổ sung quy định về “người sở hữu cuối cùng“ và trao cho Cơ quan Thanh tra, Giám sát NH quyền xác định “người sở hữu cuối cùng“ dựa trên nguyên tắc theo luật định. 
Cụ thể, đối với quy định về người có liên quan, trước mắt, đối với trường hợp cổ đông cá nhân tuy chỉ sở hữu một lượng cổ phần tuân thủ Điều 55 Luật Các TCTD nhưng nếu tính cả các bên liên quan của họ như vợ/chồng, gia đình của vợ/chồng có thể sẽ làm cho tỷ lệ sở hữu cao hơn mức quy định. Do đó, NHNN cần mở rộng đối tượng về các bên liên quan trong Luật Các TCTD...
Nhập nhằng giữa quyền sở hữu, quyền kiểm soát
Khác với thông lệ quốc tế, Khoản 1 Điều 48 Luật Các TCTD cho phép hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của TCTD là công ty cổ phần, công ty TNHH được quyền bổ nhiệm một trong số các thành viên của mình làm tổng giám đốc/giám đốc. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm này có thể dẫn đến việc xung đột về lợi ích khi tổng giám đốc (là một trong những chủ sở hữu) đưa ra những quyết định phục vụ cho một nhóm lợi ích mà không quan tâm đến quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ.
Hơn nữa, cần xác định rõ một pháp nhân không thể là thành viên ban quản trị cho dù một cá nhân đại diện cho pháp nhân đó có thể được bầu vào ban quản trị. Như vậy, cá nhân được bầu vào ban quản trị của NHTM chỉ có thể hành động với tư cách là một thành viên ban quản trị chứ không phải với tư cách là đại diện của pháp nhân, tức là cá nhân đó phải hành động vì lợi ích của tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ vì riêng lợi ích của pháp nhân được cá nhân đó đại diện. 
Tương tự, NHNN cũng cần có quy định về ban điều hành của NHTM nhằm hạn chế tình trạng SHC có thể xảy ra như tổng giám đốc/giám đốc không được đồng thời là tổng giám đốc/giám đốc của một DN khác. Ngoài ra, cần tách biệt rõ ràng gữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, theo đó không cho phép thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của NH kiêm nhiệm chức vụ trong ban điều hành. 
Vừa đầu tư vừa thương mại?
Từ Điều 103 về góp vốn, mua cổ phần và Điều 107 quy định về các hoạt động kinh doanh khác của NHTM trong Luật Các TCTD, có thể thấy những quy định này đã xóa đi ranh giới giữa chức năng NH đầu tư và NHTM trong hệ thống NH Việt Nam. Đây là một trong những “lỗ hổng” tạo điều kiện cho SHC gây ra những sai phạm về đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD, từ đó làm gia tăng nguy cơ rủi ro chéo giữa các khu vực thị trường (NH, chứng khoán, bảo hiểm) trên thị trường tài chính quốc gia.
Cụ thể, mặc dù Thông tư 13/2010/TT-NHNN đã quy định hoạt động của NH đầu tư phải được tách khỏi hoạt động của NHTM, theo đó, NH không được cấp tín dụng cho công ty trực thuộc hoạt động kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên, bằng việc SHC, NH A có thể dễ dàng lách quy định này bằng cách tác động bằng những phương pháp khác nhau để NH B (mà NH A đang đồng sở hữu) mua trái phiếu của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ của NH A. 
Những hoạt động này vô hình trung đã gắn rủi ro trong hoạt động đầu tư vào huy động và cho vay thương mại của các NH Việt Nam hiện nay, dẫn đến khả năng lan truyền rủi ro giữa các khu vực của thị trường tài chính. Trong khi tình trạng nhập nhằng giữa hai chức năng đang diễn ra như vậy, nhiều NH Việt Nam lại thông báo sẽ trở thành tập đoàn tài chính. Bản chất của tập đoàn tài chính là vừa có chức năng đầu tư, vừa có chức năng thương mại, điều này khiến cho vấn đề quản lý càng trở nên khó khăn. 
Do vậy, trong thời gian tới, luật cần bổ sung thêm các quy định liên quan đến tập đoàn tài chính, đồng thời cơ quan quản lý cần có những biện pháp chế tài hạn chế các NHTM thực hiện những nghiệp vụ như ủy thác đầu tư chứng khoán.
Các chuyên gia của Trường ĐH Kinh tế quốc dân cũng cho rằng, mặc dù Luật  Các TCTD đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của các cá nhân cũng như các tổ chức trong NHTM, tuy nhiên, để quy định này có hiệu quả hơn, nên bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông. 
Đặc biệt, Luật cần nghiêm cấm các hành vi lợi dụng SHC để vượt qua các quy định về tỷ lệ sở hữu, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; các quy định về hạn chế cho vay, giới hạn tín dụng cũng như phân loại, trích lập dự phòng rủi ro… 
“Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát SHC là vô cùng cần thiết. Song, với những sai phạm bị phát hiện, cần có cơ chế xử phạt thật nghiêm, bao gồm nâng các mức phạt hành chính nhằm gia tăng kỷ luật đối với các NHTM khác”- Nhóm chuyên gia khuyến nghị.

Đọc thêm