Giữ tiếng thơm nghề cổ
Bát Tràng là làng gốm cổ nổi tiếng của Hà Nội. Chắc lẽ đây cũng là làng gốm còn giữ được nhịp độ sản xuất sôi động nhất hiện nay. Nhiều nghệ nhân nổi tiếng như Phạm Thế Anh, Nguyễn Thắng, Trần Độ, Phạm Anh Đạo… và nhiều nghệ nhân vẫn đang thổi hồn vào các sản phẩm, tạo nên nét đẹp của hôn gốm. Nhiều người nhìn vào các sản phẩm, đã thốt lên: Chỉ những đôi bàn tay tài hoa mới có thể nhìn ra hồn đất và thổi tình yêu của mình vào để cho ra đời những sản phẩm tinh xảo.
Mới đây, giới làm gốm Bát Tràng ngưỡng mộ nghệ nhân Phạm Thế Anh - người không chỉ gìn giữ tinh hoa gốm, mà còn sáng tạo và giữ bản quyền gốm đất “Hồng sa”. Thế Anh sinh sống ở ven sông Hồng. Anh luôn trăn trở với quê và phát triển làng nghề. Khi chất liệu gốm đi vào lối mòn, anh ao ước mình có thể tìm ra chất liệu mới và phải thật sự dễ tìm, gắn với châu thổ sông Hồng càng tốt. Và thế là anh đã lấy phù sa sông Hồng về nhào nặn để thử nghiệm. Cuộc thử nghiệm diễn ra trong nhiều tháng, bởi sau khi sản phẩm được đưa vào lò nung thì bị nứt toác. Lại nghiên cứu cách pha đất, điều chỉnh nhiệt độ.
|
Nghệ nhân Phạm Thế Anh tâm huyết với gốm Bát Tràng |
Trời không phụ lòng người. Đầu năm 2019, Thế Anh đã sáng tạo thành công chất liệu mới và bảo vệ thành công sáng chế của mình: luyện đất từ phù sa sông Hồng để làm gốm. Nghệ nhân Phạm Thế Anh tâm sự: “Đất phù sa khi luyện đủ chất và nung ở nhiệt độ vừa đủ, sẽ ánh liên vẻ đẹp riêng. Tôi đặt tên dòng gốm này là Hồng sa”.
Cũng hết lòng với gốm, nghệ nhân Trần Độ có một lối đi riêng. Ông đã dành thời gian tìm tòi phục chế những hình khối, màu men cổ. Đến nay, trong gia tài Trần Độ đã có được 72 bài men cổ. Riêng dòng men ngọc, ông có tới 12 công thức, tạo ra 12 biến tấu của loại men này. Rồi men lam, men rau, men đá, men chảy, men nâu, men đen... Men nâu là mầu nâu trầm rất lạ chưa thấy có ở Bát Tràng. Nghệ nhân Trần Độ đã tái phục chế nhiều sản phẩm gốm cổ từ thời Lý - Trần - Lê.
Xuôi xuống tỉnh Hải Dương, tìm về làng Cậy (xã Long Xuyên, Bình Giang), gặp nghệ nhân Vũ Xuân Năm, tôi càng hiểu thêm dòng gốm vẫn có người tâm huyết. Ông Năm là một trong hai người ở làng có bằng nghệ nhân ưu tú, và còn đốt lò thủ công. So với thời hoàng kim, sản phẩm truyền thống gốm làng Cậy giờ chỉ 1%. Ông Năm tâm sự: “Trải qua mấy trăm năm, thời hưng thịnh của gốm Cậy có thể sánh ngang những làng gốm nổi tiếng như Phù Lãng, Bát Tràng, Chu Đậu… Khi ấy, cả làng Cậy theo nghề, trẻ em sinh ra, lên 10 tuổi tuổi đã tham gia những công việc đơn giản của nghề gốm. Tuy nhiên, từ 30 năm nay chỉ còn vài hộ đốt lò”.
Theo tìm hiểu, trong bản đồ gốm Việt Nam, từ lâu gốm Cậy được xếp ngang cùng những làng nổi danh như Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Phù Lãng... với một lịch sử lâu đời và những nét đặc trưng. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, nghề gốm của làng đã xuất hiện cách nay gần 500 năm. Bước vào thời kỳ đổi mới, khi cả nước được “cởi trói” thì gốm Cậy lại bước vào thời kỳ suy thoái. Có lẽ người làm gốm Cậy chậm bắt nhịp với thời cuộc. Sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, không cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. Nghệ nhân Vũ Xuân Năm cho biết thêm, việc giữ gìn tinh hoa nghề, tiếng thơm của làng là trách nhiệm của những người được ăn lộc tổ tiên. Biết rõ điều ấy, nhưng nhiều người không thể cưỡng lại sự thay đổi khắc nghiệt của thời gian. “Giờ nhiều người ở làng đi làm dòng gốm trang trí, thờ cúng, nói chung là đồ công nghiệp chứ không phải là tinh hoa của gốm Cậy”, ông Năm nhấn mạnh.
Nặng lòng với nghề truyền thống
Những trăn trở, chia sẻ của nghệ nhân Vũ Xuân Năm cũng là tâm tư của nhiều nghệ nhân làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), và làng gốm Hương Canh thuộc huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)…Bởi xét về truyền thống, làng gốm Thổ Hà và Hương Canh cũng có bề dày văn hóa hàng trăm năm. Nhưng trước sự thay đổi nhu cầu, sản phẩm của làng nghề thiếu “đất sống”, sản phẩm làm ra không bán được nên những người thợ lành nghề cũng chuyển sang làm nghề khác.
|
Nghệ nhân Trần Văn Hải - người gìn giữ nghề gốm Hương Canh |
Tâm sự với các nghệ nhân, chia sẻ với người làm nghề mới thấy nỗi nhọc nhằn của công việc, càng thương các nghệ nhân có óc sáng tạo, đôi bàn tay tài hoa nhưng lực bất tòng tâm. Họ vẫn sống với nỗi trăn trở, xót xa, người gầy gò, lúc nào cũng ám khói bụi, nhưng tình yêu dành cho gốm chưa bao giờ vơi cạn. Một trong những người nghệ nhân khiến giới trong nghề nể là ông Trần Văn Hải, ở xóm Lò Xang, làng Hương Canh, thị trấn Hương Canh.
Ông Hải sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm nghề gốm, ngay từ khi 4 tuổi, đã được làm quen với những miếng đất sét. Năm 1972, ông Hải vào làm ở Hợp tác xã (HTX) gốm Hương Canh. Vừa làm vừa học hỏi và chắt chiu kinh nghiệm của những người đi trước. “Lúc ấy, thị trấn Hương Canh nổi tiếng với nghề làm chum, vại, nồi niêu, ấm chén có độ bền cao, mang nét đặc trưng nên được ưa chuộng và có mặt rộng rãi khắp cả nước”, ông Hải bộc bạch.
Vốn được thừa kế kỹ thuật làm gốm từ người cha, cùng với sự chịu khó mày mò, tay nghề của ông nhanh chóng được nâng cao. Năm 1987, do sự cạnh tranh gay gắt của đồ nhựa và đồ kim loại, khiến gốm Hương Canh khó tiêu thụ, HTX gốm Hương giải thể. Đó là “tình trạng chung” và là một nỗi xót xa với những người yêu nghề. Song với quyết tâm gắn bó với nghề, ông Hải vay mượn tiền của bạn bè và gia đình mở xưởng sản xuất tại gia đình. Đầu ra khó khăn, nhưng với kinh nghiệm và quyết tâm khắc phục khó khăn, đến nay, sản phẩm của gia đình ông Hải được thị trường đánh giá là có chất lượng và sang trọng. Nhiều sinh viên mỹ thuật, nhà nghiên cứu đã tìm về gặp để học hỏi, nghiên cứu.
Tính đến nay, vợ chồng ông Hải đã có hơn 50 năm làm nghề, trong nhà, ngoài sân, chỗ nào cũng chất gốm, củi và góc vườn là khu lò đất nung to tướng. Ông bảo, gốm Hương Canh có độ bền cao, chịu được nhiệt độ và thời tiết khắc nghiệt, cũng bởi được làm từ đất sét xanh. Màu sắc của gốm Hương Canh ánh lên màu sành, chạm vào phát ra tiếng kêu lanh canh như kim loại. Ông Hải cho biết: “Tôi yêu nghề truyền thống nên gắn bó đến nay. Hiện tại, đầu ra sản phẩm cũng bắt đầu ổn định. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường, tôi không ngừng đổi mới mẫu mã, nâng cao tay nghề”./.